TruyenDoc.Yn.Lt
Kênh Giải Trí Đa Phương Tiện Siêu Hot
Giờ: 06:40 Ngày: 22/11/24
Danh Ngôn Hài Hước:
Nếu em là bịch thuốc phiện… Anh sẽ là thằng nghiện đầu tiên.
Nếu em là trại thương điên… Anh sẽ là thằng điên mãi mãi.
Click Xuống Cuối Trang
Tam Quốc Diễn Nghĩa | Truyện Khác | Truyện Dân Gian - Truyện Khác - TruyenDoc.Yn.Lt - Wap Đọc Truyện Hot Số 1 Việt Nam
Hãy nhanh tay Đăng kí và Đăng nhập để trở thành thành viên chính thức của và cùng thảo luận!
<< 1 2 3 >>
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 11: Lưu Hoàng Thúc Cứu Khổng Dung Ở Bắc Hải Lã Ôn Hầu Phá Tào Tháo Tại Bộc Dương.


Người hiến kế cho Ðào Khiêm vốn là người ở Ðông Hải, tên là My Chúc, tự là Tử Trọng.
Chúc nguyên là con nhà hào phú, một bữa ra thành Lạc Dương mua bán, đi xe về đến nửa đường gặp một người con gái xinh đẹp xin cho đi xe nhờ. Chúc xuống đi bộ, nhường xe cho người con gái ấy ngồi.
Người ấy cứ nhất định mời My Chúc lên ngồi. Chúc lên xe, ngồi thực nghiêm trang, mắt không trông ngang.
Ði được vài dậm, người con gái xin xuống xe, từ giã My Chúc nói rằng:
- Ta là Hỏa Ðức tính quân ở phương Nam, phụng mệnh Thượng Ðế xuống để đốt cháy nhà ngươi. Nay thấy ngươi đãi ta có lễ phép, nên ta bảo cho ngươi biết trước. Ngươi nên về nhà mau, dọn dẹp hết đồ đạc đi. Ðêm nay ta sẽ đến.
Nói rồi biến mất.
Chúc thất kinh, vội vàng chạy về, trong nhà có gì dọn đi hết. Tối hôm ấy quả nhiên trong bếp phát hỏa, nhà cửa cháy hết.
Chúc cũng vì thế mà đem gia tài phân tán, cứu giúp người nghèo khó. Về sau Ðào Khiêm đón về cử làm biệt giá tùng sự.
Bấy giờ My Chúc hiến kế rằng:
- Tôi xin sang quận Bắc Hải cầu Khổng Dung đến cứu. Lại xin sai một người nữa sang Thanh Châu cầu cứu Ðiền Khải. Hai nơi ấy cho quân mã đến thì Tào Tháo tất phải lui.
Khiêm nghe lời, viết hai bức thư, rồi hỏi:
- Dưới trướng có ai dám sang Thanh Châu không?
Một người xin đi, là Trần Ðằng, tự là Nguyên Long, người Quảng Lăng.
Nguyên Long đi rồi, My Chúc cũng đi sang Bắc Hải, Ðào Khiêm tự mang quân giữ thành.
Khổng Dung, tự là Văn Cử, người làng Khúc Phụ, nước Lỗ, là cháu đời thứ 20 đức Khổng Tử; con quan đỗ úy thái sơn là Khổng Trụ. Dung vốn thông minh từ thuở nhỏ. Năm lên mười tuổi, Dung có vào yết kiến quan doãn ở Hà Nam tên là Lý Ung. Lúc đến cửa, quan canh hỏi đi đâu, Dung nói:
- Ta là thông gia với Lý tướng.
Khi vào đến nơi, Lý Ung mới hỏi:
- Tổ ngươi có họ hàng gì với tổ nhà ta?
Dung nói:
- Ngày xưa Khổng Tử từng hỏi Lão Tử về việc lễ, nhà Dung với nhà ông chẳng phải đời đời thông gia với nhau là gì?
Ung lấy làm kỳ.
Ðược một hồi, có thái trung đại phu là Trần Vĩ đến chơi. Ung trỏ vào Khổng Dung mà nói rằng:
- Ðứa bé này là kỳ đồng!
Trần Vĩ bĩu môi nói rằng:
- Những đứa thuở nhỏ thông minh như thế, ngày sau lớn vị tất đã ra gì!
Dung liền ứng đối ngay rằng:
- Thưa ông, hẳn thuở nhỏ ông thông minh lắm!
Cả bọn đi với Trần Vĩ cùng cười ồ lên, mà nói rằng:
- Người này lớn lên tất là người giỏi trong đời.
Từ đấy Dung nổi tiếng, sau làm Trung Lang tướng, dần dần được làm Thái Thú Bắc Hải.
Khổng Dung tính ưa thết khách, thường nói rằng:
- Trên chỗ ngồi lúc nào cũng đông khách, trong hồ lúc nào cũng có rượu, thế là sướng nhất trần gian.
Dung ở Bắc Hải được sáu năm, dân chúng rất là yêu mến.
Hôm ấy Dung ngồi chơi với khách, có người vào báo rằng có My Chúc ở Từ Châu muốn vào hầu.
Dung ời vào, hỏi có việc gì, Chúc đưa thư của Ðào Khiêm ra, rồi nói rằng:
- Tào Tháo vây gấp lắm, xin minh công sang cứu cho.
Dung nói:
- Ta với Ðào Cung Tổ là chỗ chí thân, vả Tử Trọng lại thân hành đến tận đây, lẽ đâu ta lại không cứu; nhưng ta với Tào Mạnh Ðức không có thù oán gì. Vậy trước hết ta tưởng hãy nên sai người đưa thư giải hòa đã, nếu Tháo không nghe, bấy giờ ta sẽ khởi binh.
Chúc nói:
- Tào Tháo cậy có nhiều quân, quyết không chịu hòa.
Dung liền sai một mặt thì điểm binh sẵn, một mặt cho người đưa thư cho Tào Tháo.
Lúc đang bàn bạc, chợt có người vào báo rằng:
- Có dư đảng của đám Khăn Vàng ngày xưa, tên là Quản Hợi, đem mấy vạn quân đến định phá thành.
Dung thất kinh, vội vàng điểm quân ra thành để nghênh chiến.
Quản Hợi tế ngựa ra nói rằng:
- Bắc Hải nhiều lương, cho ta vay một vạn hộc, ta sẽ lui quân ngay. Hễ không ta đánh phá thành trì, già trẻ sẽ không một người nào sống sót.
Dung mắng mà nói rằng:
- Ta là bầy tôi nhà đại Hán, giữ đất của nhà đại Hán, có đâu lại đem lương cho giặc.
Quản Hợi giận lắm, múa đao tế ngựa chạy thẳng vào đánh Khổng Dung. Tướng Dung là Tôn Bảo, vác giáo nhảy ra địch, được vài hiệp bị Hợi chém chết, quân Dung rối loạn, chạy cả vào thành, Hợi chia quân ra bốn mặt vây thành.
Dung trong lòng bực tức, My Chúc cũng buồn chán lắm.
Hôm sau, Khổng Dung lên thành trông thấy thế giặc lạn mạnh, càng thêm lo phiền. Chợt thấy một người cưỡi ngựa vác giáo xông vào đám giặc, tả xung, hữu đột như vào chỗ không người, rồi chạy thẳng đến dưới thành, gọi to mở cửa.
Dung không biết là ai, chưa dám mở cửa. Quân giặc xấn đế bờ hào, định vào giết người ấy, nhưng người ấy quay mình lại đâm một lúc chết luôn vài chục đứa ngã ngựa. Chúng phải lui chạy cả.
Dung bấy giờ mới sai mở cửa mời vào. Người ấy xuống ngựa, bỏ giáo, lên thẳng trên mặt thành, chào Khổng Dung, Dung hỏi tên họ, người ấy thưa rằng:
- Tôi là người ở Hoàng Huyện, đất Ðông Lai, họ là Thái Sử tên là Từ, tự là Tử Nghĩa. Mẹ tôi được đội ơn ngày nhiều lắm. Hôm nọ tôi ở Liêu Ðông về nhà thăm mẹ.
Nghe tin giặc vây thành, mẹ tôi mới bảo rằng: Ta đã nhiều lần đội ơn ngài, nay con phải đi cứu. Bởi vậy một mình tôi cưỡi ngựa đến đây.
Khổng Dung mừng lắm.
Nguyên khi trước, Dung tuy không biết mặt Thái Sử Từ, nhưng vẫn biết tiếng là anh hùng. Nhân thấy Từ đi vắng xa, có mẹ già ở nhà, nhà cách thành hai mươi dặm, Dung thường sai người đem biếu gấm lụa. Bà mẹ cảm cái đức ấy nên sai con lại cứu.
Dung kính trọng Thái Sử Từ hết lòng, tặng một bộ áo giáp, ngựa và yên. Từ nói:
- Tôi xin mượn ngài một ngàn tinh binh nữa để ra ngoài thành phá giặc.
Dung nói rằng:
- Ông tuy khỏe thực, nhưng thế giặc to lắm, không nên coi thường.
Từ nói:
- Mẹ tôi cảm hậu đức của ngài, nên sai tôi đến, nếu không phá được giặc, tôi cũng không còn mặt nào dám về trông thấy mẹ. Vậy xin cứ để tôi ra, quyết một trận tử chiến.
Dung nói:
- Ta nghe có Lưu Huyền Ðức là anh hùng đời bấy giờ. Giá mời được Huyền Ðức lại cứu, thì mới giải được vây. Chỉ hiềm chưa biết nhờ ai đi cho được.
Từ nói:
- Xin ngài viết thư, tôi xin mang đi!
Dung mừng, viết thư giao cho Từ.
Từ mặc áo giáp lên ngựa, lưng đeo cung tên, tay cầm giáo, ăn no, sắm sửa đủ, mở cửa thành, phi ngựa ra đi.
Lúc gần đến bờ hào, quân giặc xúm vào đánh. Từ đâm luôn chết mấy đứa, vượt qua vòng vây chạy ra.
Quản Hợi thấy có người ở trong thành ra, tất là đi cầu cứu, liền đem vài trăm quân kỵ đuổi theo, tam mặt vây lại.
Từ dừng ngọn giáo, giương cung đặt tên, bắn cả tám mặt, không phát nào là không có người ngã ngựa, giặc sợ không dám đuổi nữa.
Từ thoát được, ngay suốt ngày đêm đến Bình Nguyên, vào ra mắt Lưu Bị.
Thư lễ xong, Từ nói hết sự tình Khổng Dung bị vây, rồi đưa thư ra. Lưu Bị xem thư xong, hỏi:
- Ông là ai?
Từ nói:
- Tôi là Thái Sử Từ, người nhà quê ở Ðông Hải. Tôi với Khổng Dung không phải anh em họ hàng, cũng không phải láng giềng làng mạc; chỉ vì nghĩa khí đối với nhau nên có ý chia xẻ ưu hoạn với nhau.
Nay Quản Hợi bạo loạn, Bắc Hải bị vây, không biết cậy vào đâu, nguy ở sớm tối. Khổng Dung nghe ngài là người nhân nghĩa, hay cứu người khốn, giúp kẻ nguy, nên sai tôi xông pha giữa vòng giáo mác, phá vòng vây đến đây cầu cứu ngài.
Lưu Bị tỏ vẻ tôn kính nói rằng:
- Khổng Bắc Hải cũng biết rằng trong đời có Lưu Bị à?
Lập tức cùng Quan Vũ, Trương Phi điểm ba ngàn tinh binh kéo sang Bắc Hải.
Quản Hợi thấy quân đến cứu, dẫn quân ra đối địch. Lại thấy quân Lưu Bị ít nên khinh thường không sợ.
Lưu Bị cùng với Quan, Trương và Thái Sử Từ cưỡi ngựa đứng ra trước trận. Quân Hợi hăm hở ra đánh.
Từ đang định xông ra. Quan Vũ đã nhảy ra trước.
Hợi địch nổi sao được Quan Vũ; mới được vài mươi hiệp, một nhát thanh long đao đã chém chết ngay Quản Hợi ở dưới chân ngựa.
Từ, Trương hai ngựa cùng ra, hai giáo đều múa, xông vào đám quân giặc, Lưu Bị thúc quân đánh riết.
Khổng Dung ở trên thành trông thấy Từ, Quan, Trương ba người vào trong đám giặc, không ai đương nổi, xông xáo tựa hồ như hổ giữa đàn dê, liền kéo binh ra thành, hai đầu đánh dồn lại, quân giặc thua chạy, đầu hàng vô số, còn bao nhiêu tan vỡ cả.
Khổng Dung đón Lưu Bị vào thành, chào lễ xong rồi, mở một tiệc yến thực to ăn mừng, lại dẫn My Chúc ra chào Huyền Ðức.
My Chúc nhân thể nói việc Trương Khải giết Tào Tung, nay Tào Tháo thả binh đến cướp phá Từ Châu, bởi vậy Ðào Khiêm sai y đến cầu cứu Khổng Dung.
Lưu Bị nói:
- Ðào Cung Tổ là người quân tử, không ngờ mắc phải oan nầy!
Dung nói:
- Ông là tôn thân nhà Hán, nay Tào Tháo tàn hại trăm họ, cậy khỏe, khinh yếu. Sao ông không cùng với tôi đi cứu Ðào Cung Tổ một thể?
Lưu Bị nói:
- Tôi đâu dám từ việc ấy, nhưng tướng ít, binh yếu, lo rằng không làm nổi việc.
Dung lại nói:
- Tôi nay đi cứu Cung Tổ tuy là tình bạn, nhưng cũng vì nghĩa lớn, ông há không có bụng trượng nghĩa hay sao?
Lưu Bị đáp:
- Có phải thế xin Văn Cử hãy đi trước, khoan cho tôi còn sang Công Tôn Toản mượn thêm năm ba ngàn quân mã, rồi sẽ đến sau.
Dung lại dặn:
- Xin ông chớ sai hẹn.
Huyền Ðức nói:
- Ông cho tôi là người thế nào! Thánh nhân đã dạy rằng: Xưa nay ai cũng chết, nhưng không có tín thì không ra người. Nay dù mượn được quân hay không, thế nào tôi cũng phải đến cứu Từ Châu.
Dung bằng lòng, sai My Chúc về báo trước cho Ðào Khiêm, rồi thu xếp khởi hành.
Thái Sử Từ lạy tạ Khổng Dung, nói rằng:
- Tôi vâng lời mẹ, sang đây giúp ngài. Nay công việc xong xuôi cả rồi, thứ sử Dương Châu là Lưu Do, là người cùng quận với tôi, có thư lại gọi, không đi không được. Xin để khi khác lại có dịp gặp nhau.
Dung đem vàng lụa tạ ơn. Từ không chịu lấy gì cả, ra về.
Mẹ Từ thấy Từ về, mừng nói rằng:
- Mẹ mừng cho con báo được ơn Bắc Hải.
Nói xong lại sai Từ sang Dương Châu.
Nay không nói chuyện Khổng Dung khởi binh sang cứu Từ Châu vội. Hãy nói chuyện Lưu Bị đến gặp Công Tôn Toản và nói chuyện cả sự tình mình muốn sang cứu Từ Châu.
Toản hỏi rằng:
- Tào Tháo không có thù gì với ông, tội gì ông lại đi giúp bên nọ đánh bên kia?
Lưu Bị nói:
- Tôi đã hứa với người ta rồi, thế nào cũng phải đi.
Toản ượn hai ngàn quân mã. Lưu Bị xin cho Triệu Tử Long đi theo. Toản bằng lòng.
Lưu, Quan, Trương dẫn ba ngàn quân bản bộ của mình đi trước, Triệu Vân dẫn hai ngàn quân kéo đi sau, cùng đến Từ Châu.
Trong khi ấy thì My Chúc về báo với Ðào Khiêm rằng:
- Khổng Dung đến giúp, lại mời thêm được cả Lưu Bị.
Trần Nguyên Long cũng về báo rằng:
- Ðiền Khải vui lòng đem quân sang cứu.
Bấy giờ Ðào Khiêm mới hơi vững dạ.
Hai cánh quân Khổng Dung, Ðiền Khải mới đến, sợ quân Tào mạnh thế nên ở đằng xa, dựa vào sườn núi đóng trại chưa dám khinh tiến.
Tào Tháo thấy hai đám quân cứu viện đã đến, cũng chia quân ra giữ, chưa dám kéo cả vào phá thành.
Lưu Bị đến sau, vào ra mắt Khổng Dung, Dung nói:
- Quân Tháo thế lớn lắm, mà Tháo lại khéo dùng mưu mẹo, ta không nên tiến vội, đợi xem tình hình thế nào đã.
Lưu Bị nói:
- Tôi chỉ lo trong thành không có lương, khó giữ được lâu. Nay hãy xin sai Quan Vân Trường và Triệu Tử Long lĩnh bốn ngàn quân ở đây với ông. Tôi thì cùng với Trương Phi kéo qua trại Tào Tháo, đi tắt đến Từ Châu, để vào bàn với Ðào sứ quân.
Dung mừng lắm, hẹn nhau với Ðiền Khải hai người lập thế ỷ giác, còn Vân Trường với Tử Long thì lĩnh binh để tiếp ứng hai bên.
Lưu Bị, Trương Phi hai người dẫn một ngàn quân mã, kéo qua bên cạnh trại Tào Tháo. Quân đang đi thấy trong trại nổi một tiếng trống, quân mã, bộ kéo ra như nước vỡ, Vu Cấm đứng đầu, dừng cương ngựa lại gọi to lên rằng:
- Bọn cuồng đồ xứ nào kéo đi đâu đấy?
Trương Phi chẳng nói chẳng rằng, xông thẳng vào đánh Vu Cấm. Hai bên đánh nhau được vài hiệp, Lưu Bị múa đôi kiếm, kéo quân tràn lên, Vu Cấm thua chạy, Trương Phi đi đầu chém giết, rồi vào thẳng đến dưới thành Từ Châu.
Trên thành trông xuống thấy lá cờ đỏ, viết năm chữ trắng thực to: Bình Nguyên Lưu Huyền Ðức. Ðào Khiêm kíp sai người mở cửa. Huyền Ðức vào thành, Khiêm tiếp đón, mời về phủ nha, thi lễ xong, mở tiệc yến khoản đãi.
Ðào Khiêm thấy Lưu Bị diện mạo hiên ngang, nói năng khoán đạt, trong bụng lấy làm mừng rỡ, sai ngay My Chúc đem cả bài, ấn Từ Châu ra, xin nhường chức cho Lưu Bị. Lưu Bị ngạc nhiên hỏi:
- Thế này là ý ngài ra làm sao?
Khiêm nói:
- Nay thiên hạ rối loạn, rường cột nhà vua không cất lên được. Ngài là Tôn thân nhà Hán, nên ra sức giúp nước. Tôi nay già rồi, không làm gì được nữa, ngài chớ có chối. Tôi xin tự viết một bài biểu dân lên triều đình.
Lưu Bị đứng ra ngoài chiếu lạy hai lạy nói rằng:
- Bị tuy là dòng dõi nhà Hán, nhưng công nhỏ, đức mỏng, làm một chức tướng ở Bình Nguyên còn sợ không nổi, nay vì đại nghĩa đến giúp ông, sao ông lại dạy thế? Hay là ông ngờ tôi có bụng tham lam gì chăng? Nếu tôi có bụng thế trời sẽ không thương tôi.
Khiêm nói rằng:
- Xin ngài chớ nghĩ thế, ấy là thực tình của tôi.
Khiêm ba lần nhường, Lưu Bị nhất định không chịu.
My Chúc thấy hai người, kẻ nhường người chối, dùng dằng mãi, bèn tiến lên thưa rằng:
- Nay quân giặc ở dưới thành, xin hai ngài hãy bàn kế phá giặc đã. Khi nào đánh tan được giặc rồi, bấy giờ xin các ngài hãy nhường thành cho nhau.
Lưu Bị nói:
- Tôi hãy đưa thư cho Tào Tháo, khuyên y giải hòa. Nếu y không nghe lời, bấy giờ ta sẽ đánh cũng không muộn.
Bèn truyền hịch cho ba trại hãy đóng binh không được động vội. Rồi sai người đưa thư cho Tào Tháo.
Tháo đương ở trung quân, cùng các tướng bàn việc, bỗng có người vào báo Từ Châu có chiến thư mang đến. Tháo mở ra xem. Thư rằng:
Từ khi Bị được tiếp tôn nhau ở ngoài cửa quan đến giờ, mỗi người một phương, không được gần gũi bên ngoài.
Vừa rồi tôn phụ Tào hầu bị hại, là vì tên Trương Khải bất nhân, chớ không phải là tội Ðào Cung Tổ.
Hiện giờ, ngoài thì dư đảng giặc Khăn Vàng quấy nhiễu; trong thì bè cánh Ðổng Trác làm loạn.
Xin minh công hãy lo việc triều đình trước, rồi sau hãy nghĩ đến thù riêng, rút quân vây Từ Châu về, để cứu nạn nước, thì Từ Châu may lắm, thiên hạ may lắm!
Tào Tháo xem thư xong, nổi giận mắng rằng:
- Lưu Bị là ai, dám đưa thư lại ngăn ta, trong thư lại có ý mỉa mai?
Nói rồi truyền đem chém sứ đưa thư, rồi ra sức đánh thành.
Quách Gia can rằng:
- Lưu Bị từ xa lại cứu, trước dùng lễ sau dùng binh, chúa công nên lấy lời tử tế đáp lại, làm cho Lưu Bị khinh thường, phòng bị trễ nải, rồi ta sẽ tiến binh đánh thành, mới dễ phá được.
Tháo nghe lời, truyền thết đãi sứ giã, rồi viết thư trả lời.
Ðang khi bàn bạc, chợt có ngựa lưu tinh lại báo rằng:
- Lữ Bố đã đánh phá Duyện Châu, hiện đang tiến binh chiếm cứ Bộc Dương.
Nguyên Lữ Bố từ khi gặp loạn Lý Thôi, Quách Dĩ, trốn ra cửa Vũ Quan, định đi theo Viên Thuật. Thuật ghét Bố là người phản phúc không dùng. Bố lại đến với Viên Thiệu, được Thiệu dung nạp.
Thiệu cùng Bố đánh tan Thường Sơn. Từ ấy Bố lấy làm đắc chí, khinh nhờn những tướng sĩ của Thiệu. Thiệu giận muốn giết. Bố lại bỏ sang với Trương Dương.
Dương dùng Bố. Bấy giờ Bàng Thư ở Trường An, cứu được vợ con Lữ Bố, sai đưa lại trả. Lý, Quách biết, bèn chém Bàng Thư, rồi đưa thư cho Trương Dương sai giết Lữ Bố. Bố lại bỏ Dương, sang với Trương Mạc.
Giữa lúc ấy thì em Trương Mạc là Trương Siêu đưa Trần Cung lại ra mắt Mặc.
Cung bảo Mạc rằng:
- Nay thiên hạ bị chia xẻ, anh hùng đều nổi dậy, ông có đất ngàn dậm, sao lại chịu ở dưới quyền người khác, há chẳng hèn lắm sao! Nay Tào Tháo đánh mặt đông, Duyện Châu bỏ trống, Lữ Bố là dũng sĩ đời nay, giá ông cùng với Lữ Bố đánh lấy Duyện Châu, thì có thể làm nên nghiệp lớn.
Trương Mạc cả mừng, liền sai Lữ Bố ra phá Duyện Châu, rồi chiếm cả Bộc Dương, chỉ có ba xứ Nhân Thành, Ðông An, Phạm Huyện là nhờ có Tuân Úc, Trình Dục lập kế cố giữ được, còn các xứ khác đều bị phá vỡ cả. Tào Nhân đánh nhau mãi, nhưng đánh không nổi, vì thế phải cho đi cấp báo với Tào Tháo.
Tháo nghe tin báo giật mình, nói rằng:
- Nếu Duyện Châu mất, ta sẽ không còn chỗ về nữa. Phải kíp lo toan ngay.
Quách Gia nói:
- Lúc này chúa công nên tỏ chút ân tình với Lưu Bị, rút quân về lấy lới Duyện Châu.
Tào Tháo lấy làm phải, lập tức viết thư đáp lại Lưu Bị, rồi nhổ trại lui binh.
Sứ giả về Từ Châu, vào thành gặp Ðào Khiêm, đưa trình thư của Tào Tháo, rồi nói quân Tào đã lui. Khiêm mừng lắm, sai người mời Khổng Dung, Ðiền Khải, Quan Vũ, Triệu Vân vào thành hội họp.
Yến tiệc xong, Khiêm mời Lưu Bị lên ghế trên, chắp tay thưa rằng:
- Lão phu này tuổi già, hai con lại không có tài, không kham nổi được việc lớn nước nhà. Lưu công là dòng dõi nhà vua, đức rộng tài cao, nên nhận lấy Từ Châu. Lão phu tinh nguyện cáo về dưỡng bệnh.
Lưu Bị nói:
- Khổng Văn Cử sai tôi đến cứu Từ Châu là việc nghĩa. Nay bỗng dưng tôi giữ lấy Từ Châu, thiên hạ tất bảo tôi là người bất nghĩa.
My Chúc nói:
- Nay vận Hán đã suy, đất nước rối loạn, dựng công lập nghiệp chính ở lúc này. Từ Châu của giàu người nhiều, dân đinh kể có trăm vạn. Lưu sứ quân không nên từ chối.
Lưu Bị nói:
- Việc ấy tôi quyết không thể vâng mệnh.
Trần Ðăng nói:
- Ðào phủ quân nhiều bệnh lắm, không sao coi nổi được công việc, xing minh công đừng từ chối.
Lưu Bị nói:
- Viên Công Lộ bốn đời làm tam công, trong nước ai cũng trong mong. Nay Công Lộ ở Thọ Xuân, sao không tìm mà nhường?
Khổng Dung nói:
- Viên Thiệu là hạng người vô dụng, chẳng khác một bộ xương khô trong mả, còn đáng để làm chi. Nay trời cho sứ quân chẳng lấy, sau có hối lại cũng muộn.
Lưu Bị nhất định không chịu. Ðào Khiêm khóc nói rằng:
- Nếu ông bỏ tôi mà đi, tôi chết cũng không nhắm mắt được!
Vân Trường nói:
- Ðào Công đã nói hết điều, thực lòng nhường cho, xin anh hãy nhận lấy việc châu.
Trương Phi cũng nói:
- Không phải là mình cố đòi lấy châu quận của người ta. Người ta có bụng tốt nhường ình, việc gì cứ phải khăng từ chối?
Lưu Bị nói rằng:
- Các em muốn hãm ta vào việc bất nghĩa hay sao?
Ðào Khiêm hai ba lần nhường, Lưu Bị cứ một mực không nghe.
Khiêm mới nói:
- Nếu ông nhất định không nghe thì gần đây có một ấp gọi là Tiể Bái, có thể đóng đồn. Xin ông tạm đóng quân mà ở đó bảo vệ Từ Châu. Ông nghĩ thế nào?
Mọi người đều khuyên Lưu Bị nên ở lại ấp Tiểu Bái, Lưu Bị nhận lời.
Khiêm khao quân xong, Triệu Tử Long cáo từ ra về. Lưu Bị cầm tay Triệu Tử Long rỏ nước mắt từ biệt.
Khổng Dung, Ðiền Khải cũng cáo biệt, dẫn quân về.
Lưu, Quan, Trương cùng dẫn quân bản bộ đến Tiểu Bái, sửa sang thành quách, phủ dụ dân cư ở đấy.
Tào Tháo kéo quân về, Tào Nhân ra đón, nói rằng:
- Lữ Bố thế to, lại có Trần Cung giúp. Duyện Châu, Bộc Dương mất cả, duy còn có Nhân Thành, Ðông An, Phạm Huyện, ba xứ ấy nhờ có Tuân Úc, Trình Dục bày mưu đặt mẹo nên còn giữ được vững.
Tháo nói:
- Ta chắc Lữ Bố có sức khỏe nhưng không có mưu mẹo, chẳng đáng lo lắm. Nay hãy lập trại đâu đấy, rồi sau sẽ bàn.
Lữ Bố biết Tào Tháo đem quân về, đã đến Ðằng Huyện bèn cho gọi phó tướng là Tiết Lan và Lý Phong bảo rằng:
- Ta muốn dùng hai người đã lâu, nay mới có dịp. Hai người dẫn một vạn quân, giữ lấy Duyện Châu cho vững, để ta đem quân đi đánh Tào Tháo.
Hai người vâng lệnh. Trần Cung vội vàng hỏi rằng:
- Tướng quân bỏ Duyện Châu, định đi đâu?
Bố nói:
- Ta muốn đóng quân ở Bộc Dương, để thành thế chân đinh.
Cung nói:
- Hỏng mất! Tiết Lan không giữ được Duyện Châu. - phía nam đường này, cách đây một trăm tám mươi dặm, có núi Thái Sơn. Chỗ ấy hiểm lắm, nên đem một vạn tinh binh phục ở đó. Quân Tào Tháo nghe Duyện Châu mất, tất nhiên gấp đường tiến lên, thế nào cũng phải đi qua đó. Ta đợi cho hắn kéo quân qua một nửa, đổ ra đánh một trận có thể bắt sống được Tào Tháo.
Lữ Bố bảo rằng:
- Ta đóng ở Bộc Dương, còn một mẹo hay hơn, ngươi biết đâu!
Bèn không nghe lời Trần Cung, sai Tiết Lan giữ Duyện Châu, còn mình thì đem quân đi.
Khi Tào Tháo đem quân đến quãng đường hẻm ở Thái Sơn, Quách Gia bảo rằng:
- Không nên đi vội. Chỗ này tất có phục binh!
Tháo cười nói rằng:
- Lữ Bố là đồ vô mưu cho nên mới giao Duyện Châu cho Tiết Lan giữ, còn hắn thì kéo quân sang Bộc Dương. Chỗ này chắc không có binh phục. Tào Nhân đâu, hãy lĩnh một cánh quân vây lấy Duyện Châu, để ta kéo quân lên đánh Lữ Bố ở Bộc Dương.
Trần Cung ở Bộc Dương với Lữ Bố nghe thấy quân Tào đã đến gần, bèn thưa với Lữ Bố rằng:
- Quân Tào nay từ xa lại, tất mỏi mệt cả, nên đánh ngay, đừng cho hắn nghỉ ngơi để dưỡng sức.
Bố nói:
- Ta một mình một ngựa tung hoành khắp thiên hạ, có sợ gì Tào Tháo. Cứ để cho hắn đóng trại, ta sẽ bắn hắn à xem.
Quân Tào Tháo gần đến Bộc Dương, lập vững doanh trại. Hôm sau Tháo đem chư tướng ra dàn trận ở ngoài đồng. Tháo cưỡi ngựa đứng dưới cửa sổ, xa trông thấy binh Lữ Bố kéo đến.
Hai bên bày trận xong, Lữ Bố cưỡi ngựa ra trước, hai bên có tám kiện tướng đứng kèm.
1. Trương Liêu, tên chữ Văn Viễn, người ở Mã Ấp, quận Nhạn Môn.
2. Tang Bá, tên chữ Tuyên Cao, người ở Hoa Âm, quận Thái Sơn.
Hai tướng ấy lại dẫn sáu tướng là Hách Manh, Tào Tinh, Thanh Liêm, Ngụy Tục, Tống Hiến, Hầu Thành và năm vạn quân. Trống đánh vang lừng.
Tháo trỏ Bố nói rằng:
- Ta với ngươi không thù hằn gì, sao ngươi lại cướp châu quận của ta?
Bố nói:
- Thàng trì nhà Hán, người nào cũng có phần, có phải của riêng của nhà ngươi đâu?
Liền sai Tan Bá tế ngựa ra đánh.
Bên Tào, Nhạc Tiến ra nghênh địch. Hai ngựa giao nhau, đôi đao đều múa, đánh nhau được hơn ba mươi hiệp, chưa phân được thua. Hạ Hầu Ðôn tế ngựa xông vào đánh giúp. Trương Liêu cũng vội ra đánh chẹn lại. Lữ Bố nóng mắt vác kích phi ngựa xông vào trận. Ðôn, Tiến đều thua chạy cả, quân Tào thua to, phải lui ba bốn mươi dặm.
Lữ Bố thu quân về.
Tào Tháo thua một trận, về trại, cùng chư tướng luận bàn. Vu Cấm nói:
- Sáng nay lên núi trông thấy phía tây thành Bộc Dương, Bố có một trại, ước chừng chỉ có một ít quân đóng. Ðêm nay tất hắn tưởng ta vừa thua, không phòng bị gì. Ta nên dẫn quân ra đánh. Nếu lấy được trại ấy, quân Lữ Bố tất sợ.
Tào Tháo nghe lời, sai sáu tướng là Tào Hồng, Lý Ðiển, Mao Giại, Lã Kiền, Vu Cấm, Ðiển Vi, dẫn hai vạn quân mã bộ liền đêm hôm ấy theo đường nhỏ kéo vào phía tây Bộc Dương.
Hôm ấy Lữ Bố về trại khao quân.
Trần Cung nói rằng:
- Trại mé tây là nơi khẩn yếu, nếu Tào Tháo đến đánh úp thì làm thế nào?
Bố nói:
- Hôm nay hắn mới thua một trận, làm sao còn dám đến!
Cung nói:
- Tào Tháo là một tay dùng binh thực giỏi. Nên đề phòng hắn đánh bất ngờ.
Bố bèn sai Cao Thuận, Ngụy Tục và Hầu Thành dẫn binh đến giữ trại phía tây.
Chập tối hôm ấy, Tào Tháo kéo quân đến trại phía tây, bốn mặt ùa vào, quân giữ trại không chống nổi chạy toán loạn cả.
Tháo cướp được trại, gần đến canh tư, thì bọn Cao Thuận mới kéo quân đến. Tháo dẫn quân ra đánh. Hai bên đánh nhau đến gần sáng. Chợt nghe tiếng trống rầm rĩ, Lữ Bố đem quân đến cứu.
Tháo bỏ trại chạy.
Ðằng sau Cao Thuận, Ngụy Tục, Hầu Thành đánh thốc lên, mặt trước thì Lữ Bố kéo quân lại, Vu Cấm, Nhạc Tiến, hai người địch Bố không nổi, Tháo cứ trông về phía Bắc mà chạy.
Sau núi có một toán quân kéo ra, tả thì Trương Liêu, hữu thì Tang Bá. Tháo sai Lã Kiền, Tào Hồng ra đánh cũng không lại. Tháo lại quay chạy về phía tây. Ðang chạy, chợt lại nghe thấy tiếng reo ầm ầm, rồi thấy một toán quân đến. Ði đầu có bốn tướng là Hách Manh, Tào Tinh, Thành Liêm, Tống Hiến kéo ra chẹn đường Tào Tháo. Các tướng Tào liều chết mà đánh, Tào mới xông lên được trước. Bỗng nghe thấy tiếng mõ đánh, tên bắn ra như mưa.
Tào Tháo không thể nào tiến lên được nữa, không biết có cách gì thoát, vội kêu lớn rằng:
- Ai đến cứu ta?
Giữa lúc ấy, trong đội kỵ mã, có một tướng nhảy ra là Ðiển Vi, hai tay cầm hai ngọn kích, kêu to lên rằng:
- Chúa công đừng lo!
Nói rồi nhảy tót xuống ngựa, cắp đôi kích dài, lấy vài mươi ngọn đoản kích, nắm trong tay, ngoành mặt lại bảo người đi theo rằng:
- Lúc nào giặc đến cách độ mười bước, hãy gọi ta!
Rồi dang chân, bước nhanh, xông vào mũi tên mà đi. Quân kỵ bên Lữ Bố vài mươi người xông đến, lính hô lên:
- Giặc còn cách mười bước rồi!
Vi nói:
- Cách năm bước hãy gọi!
Quân lại gọi rằng:
- Cách năm bước rồi!
Bây giờ Vi cầm kích ném ra, cứ mỗi ngọn kích là quân Bố chết một người, không sai một ngọn nào, một lúc giết chết vài mươi người. Quân Lữ Bố tan chạy, Vi lại cầm hai thanh kích lớn, nhảy lên ngựa, xông vào đánh. Bốn tướng của Lữ Bố là Hách, Tào, Hẫu, Tống không địch nổi đều chạy trốn cả.
Ðiển Vi đánh tan quân Lữ Bố, cứu được Tào Tháo.
Các tướng theo sau cũng dần dần kéo đến cùng nhau tìm đường về trại.
Trông trời đã tà tà về chiều, đằng sau lại thấy tiếng reo, Lữ Bố phi ngựa cầm kích, đuổi theo xông đến gọi to lên rằng:
- Thằng giặc Tào Tháo kia, đừng chạy nữa!
Bấy giờ bên Tào người ngựa mỏi mệt, mọi người nhạn nhác trông nhau, ai cũng muốn chạy thoát thân cả.
Thế là:
Ðã hay thoát khỏi vòng vây trước,
Còn sợ khôn đường giặc đuổi sau.
Chưa biết phen này Tháo sống chết thế nào, xem hồi sau sẽ rõ
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 12: Cung Tổ Ba Lần Nhượng Từ Châu Mạnh Ðức Một Phen Ðánh Lữ Bố.


Tào Tháo đang chạy luống cuống, may đâu phía Nam có một toán quân kéo đến. Nguyên là Hạ Hầu Ðôn dẫn quân lại cứu, chẹn ngang đường đánh nhau với Lữ Bố.
Ðánh nhau đến xâm xẩm tối, một cơn mưa to như trút nước xuống, hai bên đều dẫn quân về.
Tháo về đến trại, trọng thưởng Ðiển Vi, giao cho làm chức Lĩnh Quân Ðô Úy.
Lữ Bố về trại, cùng Trần Cung bàn bạc, Cung nói:
- Trong thành Bộc Dương, có một nhà giàu, họ Ðiền, đầy tớ hàng trăm, ngàn người, có tiếng ở trong quận này. Ta nên khiến nhà ấy mật sai người đưa thư cho Tào Tháo rằng: "Lã Ôn Hầu tàn bạo bất nhân, lòng người rất oán ghét; nay muốn đem quân sang Lê Dương; chỉ còn có Cao Thuận ở trong thành, nên lập tức tiến ngay, ta xin làm nội ứng..." Nếu Tháo đến, dụ cho vào trong thành, rồi bốn mặt phóng hỏa, ngoài đặt quân phục. Tháo tuy có tài ngang trời dọc đất cũng không thoát được.
Lữ Bố nghe theo, mật dụ họ Ðiền đưa thư cho Tào Tháo.
Tháo nhân lúc mới thua, còn đương lo lắng, chợt có người vào báo họ Ðiền ở Bộc Dương sai người đưa mật thư đến.
Thư rằng:
"Lữ Bố đi sang Lê Dương, trong thành bỏ không. Xin ngài đến ngay, tôi nguyện làm nội ứng. Trên thành cắm lá cờ trắng, viết to một chữ "nghĩa" làm mật hiệu."
Tào Tháo cả mừng nói rằng:
- Trời cho ta Bộc Dương rồi!
Bèn trọng thưởng cho người đưa thư, rồi lập tức thu xếp khởi binh.
Lưu Hoa nói rằng:
- Lữ Bố tuy vô mưu, nhưng có Trần Cung nhiều mẹo lắm. Tôi chỉ sợ trong việc này có phần lừa dối; ta phải phòng trước. Minh Công muốn đi thì nên chia quân ra làm ba đội. Hai đội phục ở ngoài thành để tiếp ứng, một đội vào thành, như thế mới được.
Tháo nghe lời chia quân ra làm ba đội, đến thành Bộc Dương. Tháo đi trước nghe ngóng, trông thấy trên mặt thành cờ cắm đặc cả, trên góc cửa tây có một lá cờ trắng có chữ Nghĩa, trong bụng đã mừng thầm.
Giờ ngọ hôm ấy, hai tướng trong thành kéo quân ra đánh, tiền quân là Hầu Thành, hậu quân là Cao Thuận.
Tào Tháo sai Ðiển Vi cưỡi ngựa ra, xông thẳng vào đánh Hầu Thành. Thành địch không nổi, quay ngựa chạy vào. Vi đuổi xấn đến tận bên cầu hào. Cao Thuận chống không được cũng lui binh vào trong thành.
Trong khi ấy có người trong thành, thừa cơ chạy ra ngoài, đến ra mắt Tào Tháo nói là người họ Ðiền, đưa trình mật thư, trong thư hẹn rằng:
"Ðêm nay, hồi canh một, trên thành khua chiêng làm hiệu thì tướng quân tiến binh vào. Tôi làm nội ứng, dâng thành."
Lý Ðiển can rằng:
- Chúa công nên đứng ở ngoài thành, để chúng tôi vào.
Tháo nói to rằng:
- Ta không đi thì ai chịu xông lên trước?
Nói rồi tự lĩnh binh xông thẳng vào. Bấy giờ mới đầu canh một, trăng chưa lên, chỉ nghe thấy trên cửa tây có tiếng tù và, rồi lại có tiếng reo. Trên cửa lửa đốt sáng rực; cửa thành mở to; cầu treo bỏ xuống.
Tào Tháo tế ngựa lên trước, đi thẳng đến tận nha thự, trên đường chẳng thấy một người nào cả. Tháo biết là mắc mưu, vội vàng quay ngựa trở lại hô quân lui ra.
Lúc ấy trong châu nha có một tiếng pháo nổ, bốn cửa thành lửa cháy rực trời; trống đánh vanh lừng, người reo rầm rĩ, như sóng cồn bể réo. Mé Ðông, Trương Liêu trổ ra, mé Tây Tang Bá chạy lại, hai bên đánh dồn vào. Tháo chạy ra cửa Bắc, lại bị Hách Manh, Tào Tinh đánh ột trận. Tháo chạy ra cửa Nam, lại bị Cao Thuận, Hầu Thành chẹn đánh, may có Ðiển Vi trợn mắt nghiến răng, xông vào đánh cứu. Cao Thuận, Hầu Thành phải chạy ra ngoài thành. Ðiển Vi đuổi ra đến cầu treo, ngoảnh lại không thấy Tào Tháo.
Vi lại đánh vào trong thành, đến cửa gặp Lý Ðiển, Vi hỏi:
- Chúa công đâu?
Ðiển nói:
- Ta cũng tìm không thấy.
Vi bảo Ðiển:
- Ngươi ra ngoài thúc quân ứng cứu, ta vào tìm chúa công.
Lý Ðiển đi ra, Ðiển Vi vào thành, tìm mãi không thấy, lại đánh trở ra, ra khỏi bờ hào gặp Nhạc Tiến. Tiến hỏi:
- Chúa công đâu?
Vi nói:
- Tôi vào ra hai lần rồi, tìm chúa công mãi không thấy.
Tiến nói:
- Hai chúng ta phải cùng đánh vào để cứu chúa công.
Hai người cùng trở vào, đến bên thành, thì hỏa pháo trên thành rơi xuống ngựa, Nhạc Tiến không sao vào được. Ðiển Vi xông pha khói lửa, lại vào thành đi tìm Tào Tháo.
Tào Tháo nhìn thấy Ðiển Vi đánh đến tìm mình nhưng Tháo bị bốn mặt quân mã chẹn chung quanh nên không tìm được đường cửa Nam, đành phải chạy về cửa Bắc, thế nào gặp ngay Lữ Bố, nhưng trong bóng lửa nhấp nhoáng, Bố không biết là ai.
Lữ Bố cầm kích tế ngựa lại. Tháo lấy tay che mặt ra roi tế ngựa đi thẳng. Lữ Bố ở đằng sau xấn ngựa lên, cầm ngọn kích gõ vào mũ Tào Tháo hỏi rằng:
- Tào Tháo ở đâu?
Tháo trỏ tay nói rằng:
- Người cưỡi ngựa vàng ở đằng trước kia.
Bố tế ngựa đuổi theo người đằng trước. Tào Tháo quay ngựa lại chạy ra cửa Ðông, may gặp ngay Ðiển Vi.
Vi hộ vệ Tháo, mở một đường máu ra được đến cửa thành.
Chung quanh thành lửa cháy ngùn ngụt, cỏ rác chồng chất khắp cả, chỗ nào cũng có lửa.
Ðiển Vi cầm kích gạt lửa ra hai bên, tế ngựa xông vào khói lửa ra trước. Tháo cũng theo sau ra được. Vừa đến cửa thành, có một cái xà cháy trên nhà rơi vào chân ngựa của Tào Tháo, ngựa ngã gục xuống. Tháo lấy tay đẩy cái xà ra, lửa bén vào cả cánh tay và đầu tóc. Ðiển Vi quay ngựa lại cứu. Vừa may Hạ Hầu Uyên cũng ở đâu đến.
Hai người cứu được Tháo dậy, xông qua lửa chạy ra. Tháo cưỡi ngựa của Uyên, Vi đánh mở đường để chạy.
Ðánh nhau mãi đến sáng, Tháo mới về được trại.
Các tướng vào lạy hỏi thăm, Tháo ngoảnh mặt lên cười nói rằng:
- Ta lầm mắc phải kế thất phu, thề rằng thù này thế nào cũng báo được.
Quách Gia nói:
- Có kế gì nên làm ngay!
Tháo nói:
- Nay nên nhân kế của hắn mà làm kế của mình: ta nói phao lên rằng ta bị lửa cháy chết bỏng, Bố tất dẫn quân lại đánh. Ta phục binh ở trong núi Mã Lăng, đợi hắn đến nửa chừng, đổ ra mà đánh thì quyết bắt được Lữ Bố.
Quách Gia nói:
- Thực là một kế hay!
Liền sai quân sĩ phát tang, để trở phao tin đi rằng Tào Tháo đã chết.
Có người đến Bộc Dương báo với Lữ Bố rằng:
- Tháo bị lửa cháy bỏng cả chân tay, về đến trại thì chết.
Lữ Bố lập tức điểm quân mã, kéo đến núi La Lăng. Quân đi gần đến trại Tào, một tiếng trống nổi lên, phục binh bốn mặt ồ ra. Lữ Bố cố đánh, một sống một chết, mới thoát được, tổn hại mất người quân mã, chạy về Bộc Dương giữ vững không dám ra nữa.
Năm nay có một thứ sâu, gọi là sâu hoàng ăn hại lúa má. - vùng Quan Ðông (Trường An) mỗi hộc thóc giá năm mươi quan. Dân chúng đói quá phải ăn thịt lẫn nhau.
Tào Tháo nhân hết lương, dẫn quân về đóng ở Nhân Thành. Lữ Bố cùng đem quân về đóng ở Sơn Dương. Vì vậy hai bên cùng tạm bãi binh.
Bấy giờ Ðào Khiêm ở Từ Châu đã sáu mươi ba tuổi, chợt bị bệnh, bệnh mỗi ngày một nặng, bèn mời My Chúc, Trần Ðăng đến bàn việc. Chúc nói:
- Quân Tào Tháo bỏ Từ Châu đi, cũng chỉ vì Lữ Bố cướp Duyện Châu mà thôi. Năm nay hắn bãi binh cũng là vì mất mùa. Chắc rằng sang xuân thế nào hắn cũng đến. Phủ quân đã hai lần nhường chức cho Lưu Huyền Ðức, bấy giờ phủ quân còn khỏe cho nên Huyền Ðức nhất định không chịu nhận. Nay bệnh phủ quân đã nặng, nên lại ời Huyền Ðức sang mà nhường chức một lần nữa, lần này Huyền Ðức chắc không từ chối.
Khiêm mừng lắm, sai người đi mời Lưu Bị lại bàn việc quân.
Lưu Bị đem Quan Vũ, Trương Phi và vài mươi tên kỵ mã đến Từ Châu. Ðào Khiêm ời vào chỗ nằm, Lưu Bị hỏi thăm xong. Khiêm nói:
- Tôi mời ông đến đây không phải có việc gì đâu, chỉ có một việc: tôi bây giờ bệnh đã nguy rồi, không biết sớm tối chết lúc nào. Vậy xin minh công thương lấy thành trì nhà Hán, nhận lấy bài ấn Từ Châu này, thì tôi chết mới nhắm được mắt.
Lưu Bị hỏi:
- Ông có hai con, sao không truyền cho, lại gọi tôi?
Khiêm nói:
- Tôi có hai thằng con, thằng lớn tên Thương, thằng bé tên Ung, hai đứa cùng hèn kém lắm, không sao kham nổi được việc nước. Tôi một mai nhắm mắt lại, cũng trăm nhờ minh công dạy bảo chúng nó, không nên cho chúng nó coi đến việc châu.
Lưu Bị nói:
- Một mình tôi đảm đương sao nổi việc to lớn ấy!
Khiêm thưa:
- Tôi xin cử một người để giúp ông, người ở Bắc Hải, họ Tôn, tên Càn, tự là Công Hựu. Ông nên dùng người ấy làm tùng sự.
Khiêm lại gọi My Chúc bảo rằng:
- Lưu Công là hào kiệt đời nay, ngươi nên thờ cho khéo nhé!
Huyền Ðức vẫn còn từ chối...
Lúc ấy Ðào Khiêm lấy tay trỏ vào bụng rồi tắt thở.
Các quan làm lễ điếu viếng xong rồi, liền đem bài ấn giao cho Lưu Bị, Lưu Bị nhất định không nhận.
Hôm sau cả dân châu kéo vào đầy phủ, van khóc nói rằng:
- Lưu sứ quân bằng không chịu nhận việc quận này thì dân chúng tôi không sao sống yên được.
Quan, Trương hai người cùng khuyên hai ba lần, Lưu Bị mới chịu quyền lĩnh công việc Từ Châu; dùng Tôn Càn, My Chúc làm phụ tá; Trần Ðang làm mạc quan; đem hết quân mã ở Tiểu Bái vào thành, treo bảng khuyên dân yên nghiệp, rồi sắm sửa việc tang, Lưu Bị và quan quân lớn nhỏ, đều để trở. Tế lễ linh đình xong, an táng Ðào Khiêm trên bãi cao ở bên Hoàng Hà, rồi đem tờ di biểu của Ðào Khiêm dâng lên triều đình.
Tào Tháo ở Nhân Thành, được tin Ðào Khiêm đã chết và Lưu Bị lĩnh chức mục Từ Châu, giận lắm nói rằng:
- Thù ta chưa báo xong! Lưu Bị nửa mũi tên không tốn, ngồi yên mà được Từ Châu. Phen này ta quyết trước giết Lưu Bị, sau vằm thây Ðào Khiêm để rữa oán cho thân phụ ta!
Lập tức truyền lệnh cất quân sang đánh Từ Châu. Tuân Úc lên can rằng:
- Xưa nay Cao Tổ giữ ở Quan Trung, vua Quang Vũ giữ ở Hà Nội, đều là được sâu rễ bền gốc; tiến lên thì đánh được giặc, lui về thì giữ được thành, cho nên tuy có lúc nguy khốn, nhưng về sau cũng vẫn làm nổi được nghiệp lớn. Minh Công lúc đầu vốn khởi sự ở Duyện Châu, mà đất Hà, đất Tế lại là đất hiểm trong thiên hạ và cũng là Quan Trung, Hà Nội ngày xưa, nay nhược bằng Minh Công sang lấy Từ Châu, để binh ở đây thì Lữ Bố lại thừa cơ đến cướp, thế là bỏ mất Duyện Châu. Nếu Từ Châu lại không lấy được, Minh Công sẽ đi đâu? Nay Ðào Khiêm tuy chết, nhưng đã có Lưu Bị giữ. Dân Từ Châu đã quy phục Lưu Bị lắm, tất nhiên cố sức giúp Lưu Bị. Minh Công bỏ Duyện Châu để sang lấy Từ Châu, thì khác nào bỏ cái lớn đi tìm cái nhỏ, bỏ chỗ gốc đi tìm chỗ ngọn, đem sự yên mà đổi lấy sự nguy. Xin Minh Công phải nghĩ cho chín đã!
Tháo nói:
- Năm nay mất mùa, thiếu lương ăn, quân sĩ cứ đóng ở đây cũng không xong.
Tuân Úc nói:
- Không bằng ta kéo sang mặt đông, lấy đất Trần cho quân sang ăn ở đó. Vả lại dư đảng Khăn Vàng là Hà Nghi, Hoàng Thiệu ở Nhữ Nam và Dĩnh Xuyên, cướp bóc châu quận, vàng lụa, lương thực có nhiều. Những giặc cỏ ấy phá dễ như chơi. Phá chúng nó, lấy lương thực để nuôi quân sĩ, như thế triều đình cũng mừng, dân gian cũng hả. Chính là một việc làm thuận lòng trời đó!
Tháo mừng lắm, liền cho Hạ Hầu Ðôn, Tào Nhân ở lại giữ Nhân Thành, mình thì đem quân sang lấy đất Trần, Nhữ Nam, và Dĩnh Xuyên.
Ðám dư đảng Khăn Vàng là Hà Nghi và Hoàng Thiệu thấy quân Tào kéo đến, đem binh ra đánh. Hai bên giáp trận nhau ở núi Dương Sơn.
Quân giặc tuy nhiều nhưng toàn là những đồ lăng nhăng, hỗn độn không thành đội ngũ.
Tháo sai lấy cung mạnh, nỏ cứng bắn sang. Ðiển Vi cưỡi ngựa ra. Hà Nghi sai phó nguyên soái ra đánh, đánh nhau chưa được ba hiệp, bị Vi đâm chết lăn xuống ngựa. Tào Tháo thừa thế dẫn quân xấn qua núi Dương Sơn đóng trại.
Hôm sau Hoàng Thiệu tự dẫn quân lại. Bày trận xong sai một tướng đi bộ ra, đầu đội khăn vàng, mình mặc áo xanh, tay cầm côn sắt, thét to lên rằng:
- Ta là Tiệt Thiên Dạ Sao Hà Man, ai dám ra đây đấu với ta nào?
Tào Hồng quát to một tiếng, phi mình từ trên ngựa nhảy xuống đất, vác đao đi bộ ra.
Hai người ở trước trận đánh nhau ba bốn mươi hiệp, chưa phân thắng bại. Hồng giả cách thua chạy, Hà Man xấn vào. Hồng dùng kế đà đao, quay mình lại chém trúng Hà Man; Hồng lại bồi thêm một nhát nữa, Hà Man chết.
Lý Ðiển thấy thế phi ngựa thẳng vào trận giặc. Tướng giặc Hoàng Thiệu chưa kịp đề phòng, bị Ðiển bắt sống.
Quân Tào đánh giết quân giặc, cướp được vô số tiền bạc, lương thực.
Còn Hà Nghi thế cô, dẫn vài trăm quân kỵ chạy về thung lũng Cát Pha.
Lúc đang đi đường, chợt gặp một toán quân ở trong núi kéo ra, một tráng sĩ đứng đầu, mình cao tám thước, lưng to mười chét tay, cầm thanh đao lớn ra chẹn đường. Nghi vác đao đánh, chỉ mới được một hiệp, đã bị tráng sĩ ấy bắt sống. Quân sĩ luống cuống đều xuống ngựa chịu trói. Tráng sĩ xua cả vào thung lũng Cát Pha.
Ðiển Vi truy kích Hà Nghi tới Cát Pha, thì có một tráng sĩ dẫn quân ra chặn lại. Vi hỏi:
- Ngươi cũng là giặc Khăn Vàng à?
Tráng sĩ đáp:
- Lũ Khăn Vàng có vài trăm kỵ mã, ta đã bắt nhốt cả trong thung lũng này.
Vi hỏi:
- Sao không đem ra nộp?
Tráng sĩ nói:
- Hễ ngươi địch được vớ thanh đao trong tay này thì ta đem chúng nó ra nộp.
Vi giận lắm, vác đôi kích lại đánh. Hai người đánh nhau từ giờ thìn đến giờ ngọ, không ai thua ai được, hai bên cùng tạm nghỉ. Ðược một lát, tráng sĩ lại ra thách đánh. Ðiển Vi cũng ra, đánh nhau đến mãi chiều tối. Hai người cùng mỏi, hai người lại phải tạm nghỉ lần nữa. Quân thủ hạ Ðiển Vi chạy về báo với Tào Tháo.
Tháo thất kinh, vội vàng dẫn các tướng lới xem.
Hôm sau tráng sĩ lại ra thách đánh nhau.
Tháo trông thấy người ấy oai phong lẫm liệt, trong bụng mừng thầm, dặn Ðiển Vi rằng:
- Nay ngươi hãy giả cách thua đi!
Vi vâng lời ra đánh, được ba mươi hiệp, Vi giả cách thua chạy về trận, tráng sĩ xấn đến, trong cửa trận cung nỏ bắn ra tua tủa. Tráng sĩ phải quay trở về.
Tháo kíp dẫn quân lùi lại năm dặm, mật sai người đào sẵn một hầm hố, phục sẵn câu thủ.
Hôm sau lại sai Ðiển Vi dẫn hơn trăm quân kỵ ra.
Tráng sĩ cười mà nói rằng:
- Tướng đã thua, sao lại còn dám đến đánh?
Nói rồi liền phóng ngựa ra đánh.
Ðiển Vi đánh được vài hiệp lại quay ngựa chạy. Tráng sĩ cố sức đuổi theo, không ngờ cả người lẫn ngựa cùng sa xuống hố cả, bị quân phục ra trói lại đem về nộp Tào Tháo.
Tháo vội vàng xuống trướng, mắng đuổi quân sĩ, tự cởi trói cho tráng sĩ, sai người lấy áo mặc cho, mời ngồi tử tế, rồi hỏi tên họ làng mạc ở đâu, tráng sĩ nói:
- Tôi là người ở Tiêu Huyện, nước Tiêu, họ Hứa tên Chử, tự là Trọng Khang. Nguyên trước gặp buổi loạn lạc, tụ cả tôn tộc vài trăm người, đắp một cái lũy ở trong thung lũng này để chống cự. Một bữa có giặc đến, tôi sai người nhà lấy đá vụn để sẵn, rồi tôi cầm đá ném ra, chẳng sai hòn nào. Giặc thấy vậy phải chịu lui. Lại một hôm nữa giặc đến, trong thung lũng tôi không có lương, phải hòa với giặc xin đem trâu cày đổi cho chúng, để lấy gạo. Lúc gạo giặc đã đưa đến rồi, giặc dắt trâu ra ngoài cửa thung lũng thì trâu đều chạy ngược trở lại, tôi lấy tay nắm lấy hai đuôi trâu kéo lại đi giật lùi được hơn một trăm bước. Giặc thấy thế đều thất kinh, không dám lấy trâu nữa. Bởi thế tôi mới giữ được ở đây yên ổn, không việc gì.
Tháo nói:
- Ta biết ngươi đã lâu. Nay ngươi có chịu hàng không?
Chử nói:
- Bụng tôi muốn thế đã lâu rồi.
Chử về dẫn cả họ hàng vài trăm người ra hàng Tào Tháo. Tháo cho làm Ịô Úy, thưởng rất hậu rồi đem Hà Nghi, Hoàng Thiệu ra chém.
Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên, từ ấy đều bình định cả.
Tháo rút quân về.
Tào Nhân, Hạ Hầu Ðôn ra tiếp kiến, nói rằng:
- Mấy hôm nay quân đi dò thám về báo rằng ở Duyện Châu, quân sĩ Tiết Lan, Lý Phong ra ngoài đi ăn cướp, thành bỏ trống không, chúa công đem quân vừa thắng trận về mà đánh, chỉ một trận là hạ được thành.
Tháo liền đem quân đi đường tắt đến Duyện Châu.
Tiết Lan, Lý Phong không ngờ có quân đến, chưa kịp phòng bị, nhưng cũng phải đem quân ra ngoài thành để đánh.
Hứa Chử nói:
- Tôi xin bắt hai đứa này để làm lễ ra mắt.
Tháo mừng sai Chử ra trận. Lý Phong vác họa kích lại đánh. Hai ngựa giao nhau mới được hai hiệp, Chử chém Phong chết lăn xuống dưới ngựa.
Tiết Lan vội vàng chạy về. Lý Ðiển chẹn ngang bên cầu. Lan không dám vào thành, dẫn quân kéo về Cự Giã, đang đi gặp ngay Lã Kiền tế ngựa lại đuổi bắn một phát tên, Lan chết ngã quay xuống đất. Quân Tiết Lan, Lý Phong vỡ tan cả. Tháo lấy được Duyện Châu.
Trình Dục xin tiến binh lấy lại nốt Bộc Dương.
Tháo sai Hứa Chử, Ðiển Vi làm tiên phong; Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên làm tả quân; Lý Ðiển, Nhạc Tiến làm hữu quân; Tào Tháo tự lĩnh trung quân; Vu Cấm, Lã Kiền làm hậu quân.
Quân Tào đến Bộc Dương, Lữ Bố muốn ra đánh, Trần Cung can rằng:
- Không nên đánh vội. Ðợi các tướng đến đây đầy đủ đã, rồi hãy hay.
Bố nói:
- Ta có sợ ai!
Không nghe lời Trần Cung, Bố cứ đem quân ra trận, cầm ngang ngọn kích thét mắng.
Hứa Chử ra địch, hai bên đánh nhau hai mươi hiệp chưa bên nào được thua. Tháo nói:
- Một người không thắng nổi Lữ Bố được.
Nói rồi sai Ðiển Vi ra giúp Hứa Chử đánh Lữ Bố.
Hai tướng giáp lại đánh, bên tả thì Ðôn, Uyên, bên hữu thì Ðiển, Tiến, cùng kéo ra, sáu tướng quây quần lại đánh một mình Lữ Bố. Bố chống đỡ không xuể, phải quay ngựa chạy về thành.
Họ Ðiền ở trên thành thấy Bố thua chạy về, kíp sai người ra kéo cầu lên.
Bố gọi to:
- Mở cửa!
Ðiền nói:
- Ta đã hàng Tào tướng quân rồi!
Bố chửi to một hồi rồi đem quân sang Ðịnh Ðào. Trần Cung vội vàng bảo vệ vợ con Lữ Bố mở cửa đông chạy ra ngoài thành.
Tháo lấy được Bộc Dương, tha cho họ Ðiền các lỗi khi trước.
Lưu Hoa bàn với Tào Tháo rằng:
- Lữ Bố là một con hổ dữ. Nay hắn đang cùng khốn không nên khoan dung cho hắn một chút nào.
Tháo bèn sai Hoa giữ Bộc Dương, tự mình dẫn quân đến Ðịnh Ðào. Bấy giờ Lữ Bố cùng Trương Mạc, Trương Siêu ở trong thành, còn Cao Thuận, Trương Liêu, Tang Bá, Hầu Thành, đi tuần để kiếm lương chưa về.
Quân Tào Táo đến Ðịnh Ðào, đợi mấy ngày Lữ Bố không chịu ra đánh, bèn rút quân lui bốn mươi dặm hạ trại. Nhân bấy giờ lúa mạch ở Tế Quận đã chín. Tháo sai quân ra gặt về để ăn.
Quân đi thám về báo với Lữ Bố. Bố đem quân lại, đi đến gần trại Tào Tháo, trông về phía tả thấy rừng rậm um tùm, sợ có quân phục lại phải trở về.
Tháo biết quân Bố quay trở về, bảo với chư tướng rằng:
- Lữ Bố nghi trong rừng có quân phục. Ta nên cắm rõ nhiều tinh kỳ để đánh lừa hắn. Mé tây trại có một dải đường đê không có nước, ta nên đem tinh binh ra phục ở đó. Ngày mai Lữ Bố tất đến đốt rừng, quân phục trở ra đánh tập hậu chắc bắt được Lữ Bố.
Tháo nói xong làm ngay. Trong trại Tháo chỉ để độ năm mươi người đánh trống và bắt bọn trai gái bắt được ở dân thôn hò reo, còn bao nhiêu tinh binh phục cả ở sau đê.
Quả nhiên Lữ Bố nghi trong rừng có quân phục, hấp tấp về kể chuyện với Trần Cung. Cung nói:
- Tào Tháo có nhiều quỉ kế, không nên khinh chiến đâu.
Bố nói:
- Ta dùng mẹo hỏa công, chắc phá được quân phục.
Liền sai Trần Cung, Cao Thuận, giữ thành rồi hôm sau kéo đại quân vào rừng đánh giặc. Ði xa xa đã trông thấy trong rừng có cờ, kéo quân đi xấn lên, bốn mặt sai phóng hỏa. Rừng cháy ngùn ngụt nhưng chẳng thấy người nào; muốn kéo quân về trại Tào Tháo, thì nghe thấy tiếng trống đánh rầm rỉ cả lên. Trong bụng Lữ Bố còn đương nghi nghi hoặc hoặc, thì chợt ở sau trại có toán quân kéo ra. Bố tế ngựa xấn lại. Bỗng nghe thấy một tiếng pháo nổ, rồi quân phục ở sau đê trổ ra.
Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên, Hứa Chử, Ðiển Vi, Lý Ðiển, Nhạc Tiến, tế ngựa kéo ồ cả ra.
Lữ Bố liệu không địch nổi, vội vàng chạy trốn. Tướng Bố là Thành Liêm bị Nhạc Tiến bắn một mũi tên chết. Quân Bố ba phần chết mất hai.
Quân thua có đứa chạy được về báo với Trần Cung. Cung nói:
- Thành trống không, khó giữ, chi bằng hãy bỏ chạy.
Liền cùng với Cao Thuận đưa vợ con Lữ Bố bỏ Ðịnh Ðào mà đi.
Quân Tào Tháo thừa thắng đánh bừa vào thành, đánh đến đâu được đến đó, dễ như chẻ tre.
Trương Siêu tự vẫn chết, Trương Mạc chạy sang với Viên Thuật.
Một sứ Sơn Ðông về tay Tào Tháo cả.
Tháo phủ dụ dân chúng sửa sang thành quách lại.
Lữ Bố đang khi chạy trốn, gặp ngay các tướng đi kiếm lương đã về. Trần Cung cũng vừa tìm đến nơi.
Bố nói:
- Quân ta dù ít, còn đủ phá được Tào Tháo.
Liền lại kéo quân trở lại.
Thế thực là:
Ðược thua, thua được là thường
Quay binh đánh lại ai lường được đâu!
Chưa biết Lữ Bố phen này được thua thế nào, xem hồi sau mới tỏ.
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 13: Lý Thôi, Quách Dĩ Một Trận Giao Tranh Dương Phụng, Ðổng Thừa Hai Lần Cứu Giá


Tào Tháo đánh phá được Lữ Bố ở Ðịnh Ðào. Bố thu nhặt tàn quân mã ở bờ bể, cùng các tướng định quay trở lại đánh nhau với Tào Tháo.
Trần Cung can rằng:
- Nay Tào Tháo binh thế lớn, mình chưa tranh dành được với hắn. Hãy nên tìm xứ nào yên thân, về sau sẽ tính cũng không muộn.
Bố hỏi:
- Ta lại muốn sang với Viên Thiệu, nên không?
Cung nói:
- Hãy nên sai người sang Ký Châu, dò xem tình ý ra sao, rồi hãy đi.
Bố nghe lời.
Bấy giờ Viên Thiệu ở Ký Châu nghe thấy Tào Tháo đánh nhau với Lữ Bố. Mưu sĩ của Thiệu là Thẩm Phối nói rằng:
- Lữ Bố là một giống hổ sói. Nếu hắn lấy được Duyện Châu, tất sang chiếm cả Ký Châu. Bất nhược ta giúp Tào Tháo đánh Lữ Bố, về sau khỏi lo.
Thiệu sai Nhan Lương đem năm vạn quân sang giúp Tào Tháo.
Quân do thám nghe được tin, về báo với Lữ Bố. Bố sợ lắm, bàn với Trần Cung. Cung nói:
- Tôi nghe ông Lưu Bị mới lĩnh đất Từ Châu, ta nên sang nhờ ông ấy.
Bố nghe lời Cung, sang Từ Châu.
Có người báo với Lưu Bị, Bị nói:
- Lữ Bố là người anh dũng đời nay, ta nên ra đón.
My Chúc nói:
- Lữ Bố là giống hổ lang, không nên chứa. Chứa hắn, tất có khi hắn hại người.
Huyền Ðức nói:
- Trước kia nếu không có Lữ Bố đánh ở Duyện Châu, thì Từ Châu sao thoát được nạn. Nay hắn thế cùng mà về với ta, thì còn có bụng gì khác nữa.
Trương Phi nói:
- Ðại huynh bụng rất tốt. Nhưng phải đề phòng mới được.
Lưu Bị lĩnh quân ra khỏi thành ba mươi dặm để đón Lữ Bố. Hai người cùng sóng đều ngựa đi vào thành, vào đến tận châu nha. Chào mừng xong, mọi người an tọa. Bố nói:
- Từ khi Vương tư đồ giết Ðổng Trác, về sau gặp cuộc biến loạn của bọn Thôi, Dĩ, tôi phải long đong ở xứ Quan Ðông. Chư hầu nhiều người không dung, gần đây lại gặp Tào Tháo bất nhân, xâm chiếm Từ Châu. May nhờ có sứ quân cố sức cứu Ðào Cung Tổ, tôi bấy giờ cũng đánh úp được Duyện Châu, mới chia được thế của Tào Tháo; không ngờ tôi lại mắc phải mưu gian, hao quân tổn tướng. Nay xin về với sứ quân, cùng toan việc lớn. Chưa biết ý sứ quân nghĩ làm sao?
Huyền Ðức nói:
- Ðào sứ quân mới mất, không có ai quản lĩnh Từ Châu, nên sai tôi tạm quyền cai quản. Nay may có tướng quân đến đây, tôi xin nhường lại.
Nói rồi liền đem bài ấn giao cho Lữ Bố. Bố chực giơ tay đỡ lấy, lại thấy sau lưng Lưu Bị có Quan Vũ, Trương Phi, hai người đều có vẻ mặt tức giận cả. Bố giả cách cười nói rằng:
- Tôi là một đứa dũng phu, làm thế nào được châu mục.
Lưu Bị lại xin nhường.
Trần Cung nói:
- Khách mạnh, không lấn được chủ. Xin sứ quân đừng nghi.
Lưu Bị mới thôi, sai mở tiệc yến khoản đãi, rồi sai dọn dẹp một nơi tươm tất để Lữ Bố nghỉ ngơi.
Hôm sau Lữ Bố làm tiệc mời lại Huyền Ðức. Lưu, Quan, Trương cùng đi.
Uống rượu độ nửa chừng, Lữ Bố mời Huyền Ðức vào nhà trong. Quan, Trương cùng theo vào. Lữ Bố sai vợ con ra lạy. Huyền Ðức hai ba lần khiêm tốn không dám nhận.
Lữ Bố nói:
- Hiền đệ tất phải khiêm nhường.
Trương Phi nghe thấy câu ấy, trợn mắt thét mắng:
- Anh ta là cành vàng lá ngọc. Ngươi là đứa nào dám gọi anh ta là hiền đệ? Lại đây, ta đánh với ngươi ba trăm hiệp.
Lưu Bị vội vàng mắng át đi. Quan Công khuyên Trương Phi đi ra, rồi lấy lời ôn tồn nói với Lữ Bố rằng:
- Em tôi uống rượu say nói càn, xin anh đừng chấp.
Bố lặng yên không nói.
Một hồi, tiệc tan. Lữ Bố tiễn Lưu Bị ra tận cửa, Trương Phi cưỡi ngựa đi ngang ngoài cửa thét to:
- Lữ Bố, ta đánh với ngươi ba trăm hiệp.
Lưu Bị vội vàng sai Quan Công ra bảo Trương Phi phải thôi đi.
Ðến hôm sau, Lữ Bố đến từ giã Lưu Bị nói rằng:
- Sứ quân không nỡ bỏ tôi, nhưng chỉ sợ lệnh đệ không dung. Vậy tôi xin đi nơi khác.
Lưu Bị nói:
- Nếu tướng quân đi thì tội tôi chẳng hóa ra to lắm ru. Em tôi hắn hỗn với tướng quân, hôm khác tôi xin bắt hắn đến xin lỗi. Gần đây có ấp Tiểu Bái, khi trước tôi cũng đóng đồn ở đó. Xin tướng quân chớ nề hẹp hòi tạm đến nghỉ ngựa. Lương thực và quân nhu, tôi xin cung ứng cả.
Lữ Bố tạ ơn Lưu Bị, rồi dẫn quân ra đóng ở Tiễu Bái.
Lưu Bị từ bữa ấy chê trách Trương Phi mãi.
Tào Tháo từ khi bình được Sơn Ðông, dân biểu tâu về triều đình. Triều đình thăng chức cho Tháo làm Kiến Ðức tướng quân, phong làm Phi đình hầu.
Lúc bấy giờ Lý Thôi tự làm Đại Tư Mã. Quách Dĩ tự làm Đại Tướng Quân, hoành hành không còn vị nể ai cả. Triều đình không ai dám mở miệng.
Thái Úy là Dương Bưu, Đại Tự Nông là Chu Tuấn mật tâu với vua Hiến Ðế rằng:
- Nay Tào Tháo cầm hơn 20 vạn quân, mưu thần, dũng tướng trong tay có vài mươi người. Nếu được người ấy để phù trì xã tắc, tiêu trừ đứa gian phi, thì thiên hạ may lắm!
Hiến Ðế khóc nói rằng:
- Trẫm bị hai đứa giặc ấy khinh nhờn đã lâu. Nếu giết được thì hay lắm.
Bưu tâu rằng:
- Thần có một mẹo, trước làm cho hai đứa tự tàn hại lẫn nhau, rồi sau mới mời Tào Tháo đem binh vào giết, quét sạch lũ giặc để yên triều đình.
Hiến Ðế hỏi:
- Kế ấy là kế gì?
Bưu tâu:
- Thần nghe vợ Quách Dĩ rất hay ghen, nay sai người đến xúi vợ hắn, dùng kế phản gián, hai đứa giặc tất giết lẫn nhau.
Vua liền viết tờ mật chiếu, đưa cho Dương Bưu, sai Bưu thi hành kế ấy.
Bưu lập tức sai vợ, lấy cớ có việc đến phủ Quách Dĩ, nhân dịp bảo vợ Dĩ rằng:
- Tôi nghe Quách tướng quân thường cùng với phu nhân Lý Tư Mã có tư tình với nhau, tình thân mật lắm. Nếu quan Tư Mã biết chuyện tất bị tai vạ. Phu nhân nên giữ gìn đừng cho đi lại nữa là hơn.
Vợ Dĩ đem lòng ngờ ngay chồng, nói:
- Thảo nào! Mấy đêm nay nhà tôi không về. Chẳng hóa ra đi làm việc vô sỉ ấy. Giá phu nhân không nói thì tôi không biết, để từ nay tôi xin giữ gìn.
Vợ Bưu từ giã về. Vợ Dĩ ra tiễn, hai ba lần tạ ơn rồi mới trở vào.
Ðược vài ngày, Quách Dĩ lại sắp sang nhà Lý Thôi ăn yến. Vợ ngại, không cho đi nói rằng:
- Lý Thôi là người bất trắc lắm. Và thời nay hai người anh hùng không chắc đứng lâu được với nhau. Phu quân sang bên ấy, ví dụ trong khi ăn uống, Lý Thôi đánh thuốc độc, thiếp làm thế nào?
Quách Dĩ nhất định không nghe. Vợ hai ba lần ngăn can. Buổi chiều Lý Thôi sai người đem biếu một mâm rượu. Vợ Dĩ bỏ thuốc độc vào đồ ăn rồi mới bưng vào cho chồng. Dĩ định ăn ngay, vợ nói:
- Ðồ ăn ở ngoài đưa lại, không nên ăn ngay.
Nói rồi đem đổ mội ít cho chó ăn thử. Chó ăn chết liền.
Từ đấy Quách Dĩ có bụng ngờ Lý Thôi.
Một hôm tan chầu, Lý Thôi lại mời Quách Dĩ về nhà uống rượu. Dĩ cũng đến. Ðến đêm tan tiệc, Dĩ say mới trở về. Ngẫu nhiên đêm hôm ấy đau bụng. Vợ thấy vậy mới nói:
- Thôi lại ăn phải thuốc độc rồi!
Nói rồi sai lấy nước phân cho uống. Dĩ uống xong thổ ra hết đồ ăn, thì khỏi đau bụng.
Dĩ giận lắm, nói rằng:
- Ta với Lý Thôi cùng toan việc lớn với nhau, nay bỗng dưng muốn hại ta. Ta không liệu trước tất mắc tay hắn.
Liền sửa sang giáp binh bản bộ mình để đi đánh Lý Thôi. Có người báo với Thôi. Thôi nổi giận nói rằng:
- Quách Dĩ sao dám thế.
Thôi cũng đem giáp binh bản bộ lại đánh
Hai người họp binh vài vạn ở dưới thành Trường An đánh nhau chán rồi, thừa thế cướp bóc của dân.
Cháu Lý Thôi là Lý Tiêm, dẫn quân đến vây cung điện, rồi lấy hai cỗ xe, một cỗ chở thiên tử, mộc cỗ chở Phục hoàng hậu, rồi sai Giả Hủ, Tả Linh đi giám áp xa giá; còn bao nhiêu phu nhân nội thị đều phải đi bộ cả. Trong khi mọi người kéo ra cửa Hậu Tể, gặp ngay binh Quách Dĩ đến, bắn nhau tua tủa. Cung nhân bị chết vô số. Lý Thôi từ đằng sau đánh lại, Quách Dĩ phải rút lui, xa giá mạo hiểm ra ngoài thành, không ai phân giải điều gì, bị đưa ngay đến dinh Lý Thôi. Quách Dĩ lui binh vào cung bắt hết cung tần thái nữ đem về trại, rồi phóng hỏa đốt cung điện.
Hôm sau, Quách Dĩ biết Lý Thôi cướp mất thiên tử bèn đem binh đến trước cửa trại đánh nhau.
Vua và hoàng hậu đều sợ hãi lắm.
Ðời sau có bài thơ than rằng:
Từ khi Quang Vũ trung hưng
Truyền đời trên dưới, mới chừng mười hai.
Hoàn, Lin, vô đạo nối ngôi,
Hoạn quan chuyên chính, ra đời đã suy,
Tam công Hà Tiến ra gì?
Muốn trừ chuột xã gọi chi gian thần?
Ðuổi sài rước hổ vào trong,
Tây Châu giặc Ðổng nổi lòng dâm hung
Tư Ðồ mưu cậy má hồng
, Khiến cho Ðổng, Lữ lẫn cùng giết nhau.
Giặc tan dân đã bớt sầu,
Biết đâu Lý, Quách ra mầu hung hăng!
Kinh thành cỏ rậm gai chằng
Sáu cung đói khát khổ đàng can qua.
Vận trời đến buổi sút sa
Anh hùng chia xẻ sơn hà lìa tan
Vua sau coi đấy nên răn,
Lọ vàng chớ để cho tan mẻ hoài.
Sinh linh gan nát óc lầy,
Máu oan lai láng tràn đầy non sông
Ta xem sử xót thương lòng,
Thử ly thơ trước hãi hùng xưa nay
Bào tang giữ lấy lời này,
Giươm thần cầm vững vẹn bày kỷ cương.
Khi quân Quách Dĩ đến, Lý Thôi ra trại đánh nhau. Quách Dĩ thua rút về. Lý Thôi mới đem xa giá vua và hoàng hậu rời sang My , sai cháu là Lý Tiêm coi giữ, cấm nội sứ, không cho ai vào. Vua tôi ăn uống bữa có bữa không. Thị thần người nào người ấy đói vỡ cả mặt.
Một bữa vua cho người ra hỏi Lý Thôi lấy năm hộc gạo và năm bộ xương trâu để cho kẻ hầu người hạ ăn.
Thôi nổi giận mắng rằng:
- Sớm chiều đã dâng cơm rồi, còn đói gì nữa?
Rồi lấy những thịt thiu cơm vữa đem cho.
Hôi quá không ai ăn được vua mới mắng rằng:
- Nghịch tặc dám khinh ta như thế à!
Quan Thị Trung là Dương Dỳ kíp tâu rằng:
- Quân hắn đã tàn bạo đến thế này, xin bệ hạ hãy nên nhịn, không nên trêu tức hắn.
Vua cúi đầu không nói gì nữa, tay áo cồn gạt hai hàng nước mắt chứa chan. Chợt thấy tả hữu vào báo rằng:
- Có một đám quân mã, gươm giáo sáng choang, chiêng trống om sòm, lại đây cứu bệ hạ.
Vua sai ra xem ai, thì là Quách Dĩ, lại càng lo thêm.
- Ngoài thung lũng tiếng người reo rầm rĩ tức là Lý Thôi dẫn quân đến đánh Quách Dĩ.
Thôi cầm roi trỏ vào Dĩ mắng rằng:
- Ta đối đãi với ngươi không bạc bẽo gì, sao ngươi lại rắp tâm hại ta, hở Dĩ?
Dĩ trả lời:
- Mày là đứa phản tặc, chẳng giết để làm chi?
Thôi nói:
- Ta bảo vệ vua ở đây, sao lại là phản tặc?
Dĩ nói:
- Thế là bức hiếp vua, sao gọi là bảo vệ vua?
Thôi nói:
- Nói làm chi nhiều, ta với ngươi không dùng quân sĩ, chỉ hai người đánh nhau, người nào thắng thì được đem vua đi.
Hai người liền đánh nhau ngay ở trước trận.
Ðánh nhau được mười hiệp, chưa rõ ai được thua, thì thấy Dương Bưu tế ngựa lại gọi to lên rằng:
- Xin hai tướng quân hãy ngừng tay. Tôi đã mời các quan đến đây để giảng hòa.
Hai bên ai về trại nấy.
Dương Bưu và Chu Tuấn hội họp các quan triều thần hơn 60 người, kéo nhau đến trại Quách Dĩ dàn hòa trước. Dĩ bắt các quan giam cả lại. Các quan kêu rằng:
- Chúng tôi đến đây để bàn điều hay, sao lại đối xử như thế?
Quách Dĩ nói:
- Lý Thôi bức hiếp thiên tử, thì ta cũng bức hiếp công khanh, chứ kém gì?
Dương Bưu nói:
- Một người hiếp thiên tử, một người hiếp công khanh là ra làm sao?
Dĩ nổi giận lên, cầm kiếm toan giết Dương Bưu, có quan trung lang tướng là Dương Mật cố can mãi, Dĩ mới tha cho Bưu và Chu Tuấn, còn các quan thì giam cả lại trong trại. Ra ngoài Bưu bảo với Tuấn rằng:
- Anh em mình làm tôi xã tắc, nay không cứu được chúa, sống ở trên đời cũng là thừa.
Nói xong hai người ôm lấy nhau khóc, ngất ngã lăn xuống đất.
Tuấn về nhà lo nghĩ thành bệnh chết.
Từ bấy giờ Thôi, Dĩ cứ mỗi ngày một lần đánh nhau ròng rã hơn 50 ngày trời, quân chết không biết bao nhiêu mà kể.
Lý Thôi tính hay ưa tà đạo và thuật yêu quái, thường thường cho bà cốt lên đồng ở trong quân. Giả Hủ can mãi không nghe.
Quan Thị Trung là Dương Kỳ thấy vậy liền mật tâu với vua rằng:
- Thần xem Giả Hủ, tuy làm tâm phúc Lý Thôi nhưng thực bụng vẫn chưa từng quên vua. Bệ hạ nên bàn với hắn.
Ðang nói thì Giả Hủ ở đâu đến. Vua đuổi tả hữu đứng ra xa, rồi khóc bảo Hủ rằng:
- Ngươi có thương nhà Hán mà cứu lấy trẫm không?
Hủ phục xuống đất, lạy thưa rằng:
- Xin bệ hạ chớ nói ra. Bụng thần vốn vẫn muốn thế, thần xin sẽ liệu việc ấy.
Vua gạt nước mắt tạ Hủ.
Ðược một chốc, Lý Thôi lại đeo kiếm đi thẳng vào. Mặt vua xám ngắt. Thôi nói với vua rằng:
- Quách Dĩ là đứa bất nhân, hắn dám giam giữ các công khanh, lại muốn bức hiếp cả bệ hạ, không có tôi, xa giá bị xiêu dạt rồi.
Vua chắp tay tạ, Thôi mới ra.
Rồi lại có Hoàng Phủ Lịch vào ra mắt, vua biết Lịch là người nói khéo, lại là người làng Lý Thôi, bèn sai Lịch ra giải hòa hai bên. Lịch vâng chiếu, đến trại Quách Dĩ nói. Dĩ bảo:
- Hễ Lý Thôi có đưa thiên tử ra thì ta tha các công khanh.
Lịch lại đến Lý Thôi bảo rằng:
- Nay thiên tử biết tôi là người Tây Lương, cùng làng với ông, nên sai tôi đến giải hòa cho hai ông. Dĩ phụng chiếu rồi, còn ông thế nào?
Thôi nói:
- Ta có công đánh được Lữ Bố, làm phụng chính đã bốn năm nay, công trạng rất nhiều. Thiên hạ ai cũng biết. Quách Dĩ bất quá là một đứa ăn trộm ngựa mà thôi, thế mà hắn dám ăn hiếp công khanh, và chống lại ta. Ta thề phên này phải giết hắn. Ông thử trông xem quân sĩ và kế hoạch của ta, có đánh nổi được tên Quách Dĩ không?
Lịch nói:
- Không nên, ông ơi! Ngày xưa Hậu Nghệ ở xứ Hữu Cùng cậy mình bắn giỏi, không biết lo nghĩ, đến nỗi tuyệt diệt. Vừa mới rồi, Ðổng thái sư cường thịnh bao nhiêu, rồi sau thế nào, mắt ông đã trông thấy rành rành, Lữ Bố đội ơn Ðổng thái sư mà lại giết Ðổng thái sư, chỉ trong giây phút, đầu thái sư treo cửa chợ, xem thế thì cường thịnh có vững chắc gì. Tướng quân mình làm thượng tướng cầm phủ việt, cắp cờ tiết, họ hàng con cháu đều ở ngôi cao; ơn nước không phải không hậu. Quách Dĩ hiếp công khanh, ông hiếp vua, thế thì bên nào nhẹ, bên nào nặng.
Lý Thôi giận lắm, rút kiếm ra mắng rằng:
- Thiên tử sai ngươi nổi dậy để làm nhục ta hay sao? Trước hết ta hãy chém đầu ngươi!
Kỵ Đô Úy là Dương Phụng can rằng:
- Nay chưa trừ được Quách Dĩ, lại đem giết sứ nhà vua, tôi e Quách Dĩ vịn cớ để khởi binh, chư hầu ai cũng sẽ giúp hắn.
Giả Hủ cũng cố can, Thôi mới nguôi cơn giận. Hủ đẩy Hoàng Phủ Lịch ra. Lịch kêu to lên rằng:
- Lý Thôi không phụng chiếu, muốn giết vua để lên ngôi báu.
Thị trung là Hồ Mặc vội vàng ngăn nói rằng:
- Ðừng nói câu ấy, sợ sẽ không lợi cho bản thân.
Lịch mắng rằng:
- Hồ Mặc! Ngươi cũng là tôi triều đình, sao lại về bè với giặc. Vua nhục thì tôi phải chết. Dù ta bị Lý Thôi giết, là ta trọn đạo làm tôi chứ sao?
Lịch vừa nói vừa mắng mãi không thôi. Vua thấy vậy vội vàng sai Lịch trở về Tây Lương.
Quân Lý Thôi quá nửa là người ở Tây Lương, lại được người ở nước Khương giúp đỡ.
Hoàng Phủ Lịch đến Tây Lương, nói toáng lên rằng:
- Lý Thôi mưu làm phản, hễ ai theo hắn là giặc và tai họa về sau sẽ không lường được.
Nhiều người Tây Lương tin lời của Lịch, lòng quân sĩ của Lý Thôi cũng dần dần nao núng. Thôi nghe tin ấy giận lắm, kíp sai hổ bôn là Vương Sương đuổi theo. Sương biết Lịch là người trung nghĩa, không đi đuổi về báo rằng:
- Không biết Lịch đi đằng nào.
Một mặt thì Giả Hủ dỗ người nước Khương rằng:
- Thiên tử cũng biết các ngươi là trung nghĩa, đánh mãi thì khổ nhọc. Bởi vậy bệ hạ có mật chiếu cho các ngươi về quận, ngày sau sẽ có thưởng to.
Người nước Khương đang oán sẵn Lý Thôi không cho hưởng tước, liền nghe lời Giả Hủ, kéo cả về.
Hủ lại mật tâu với vua rằng:
- Lý Thôi tham mà vô mưu, thấy binh lính bỏ về, bụng đã lo sợ, bệ hạ nên lấy trọng tước mà giữ hắn.
Vua liền hạ chiếu phong Lý Thôi làm đại tư mã, Thôi mừng nói rằng:
- Phúc này thật là thần thánh ban cho ta. Lạy thánh vạn lạy, có cúng có bái cũng có hơn!
Thôi thưởng to cho các đồng cốt, còn quân tướng thì không nói gì đến. Kỵ Đô Úy là Dương Phụng giận lắm bàn với Tống Quả rằng:
- Chúng ta ra sống vào chết, xông pha mũi tên hòn đạn, mà té ra công trạng không bằng mấy mụ đồng bóng.
Tống Quả nói:
- Thế thì sao không giết hắn đi mà cứu thiên tử.
Phụng nói:
- Ngươi ở trong quân đốt lửa làm hiệu, rồi ta ở ngoài kéo binh vào tiếp ứng.
Hai người hẹn nhau canh hai đêm hôm ấy khởi sự. Không ngờ việc không kín, tiết lộ ra có người nghe thấy, báo với Lý Thôi. Thôi giận sai người bắt Tống Quả giết đi. Dương Phụng dẫn binh ở ngoài chờ mãi không thấy hiệu lửa. Lý Thôi tự đem quân ra, vừa gặp Dương Phụng đến. Hai bên đánh nhau đến canh tư, Phụng không đánh nổi, chạy về Tây An.
Từ đấy, quân thế Lý Thôi mỗi ngày một suy, lại thường thường bị Quách Dĩ đến đánh, quân sĩ bị giết chết rất nhiều, chợt lại có người báo rằng:
- Trương Tế thống lĩnh một cánh đại quân từ Thiểm Tây đến, muốn giảng hòa cho hai bên, nói rao lên rằng: bên nào không nghe thì đánh.
Thôi nhân thể lấy lòng Trương Tế, sai người đến Quách Dĩ cầu hòa. Dĩ cũng phải vâng theo.
Trương Tế dâng biểu mời thiên tử ra chơi ở Hoằng Nông. Vua mừng nói rằng:
- Ta đã lâu nay nhớ Ðông Ðô lắm. Nay nhân thể được về, lấy làm may lắm.
Liền hạ chiếu phong Trương Tế làm Phiêu Kỵ tướng quân. Tế dâng lương thực, rượu thịt để cung cấp cho các quan. Quách Dĩ cũng tha cho các công khanh ra trại. Lý Thôi cũng thu xếp xa giá để về Ðông Ðô, sai vài trăm quân ngự lâm, cầm kích đi hộ tống. Khi loan giá qua Tân Phong đến Bá Lăng, trời về tiết thu, bỗng nổi cơn gió lạnh, nghe thấy có tiếng reo, rồi thấy vài trăm quân đến đầu cầu chẹn đường không cho xa giá đi, quát to hỏi rằng:
- Người nào qua đây?
Thị Trung là Dương Kỳ tế ngựa lên cầu nói rằng:
- Xe vua qua đây, đứa nào dám ngăn trở?
Có hai tướng ra nói:
- Chúng tôi vâng lệnh Quách tướng quân sai giữ cầu này, phòng kẻ gian phi. Có phải xa giá vua đi, xin được trong thấy vua, chúng tôi mới tin.
Dương Kỳ mở rèm châu ra, vua mới dụ bảo rằng:
- Trẫm ở đây, sao các ngươi không lui quân?
Các tướng trông thấy, đều reo: vạn tuế! rồi đứng ra hai bên, để xa giá đi qua. Xe đi rồi, hai tướng về báo với Quách Dĩ.
Dĩ nói:
- Ta ý muốn đánh lừu Trương Tế, bắt xa giá quay về My , sao các ngươi lại tự tiện tha ngay?
Dĩ liền chém hai tướng rồi khởi binh đi đuổi xe vua.
Xe đi đến huyện Hoa Âm, bỗng nghe đằng sau có tiếng reo vang dậy, gọi to rằng:
- Xa giá đừng đi vội!
Vua khóc bảo với đại thần rằng:
- Vừa thoát hang sói, lại gặp miệng hùm. Bây giờ tính làm sao?
Các quan sợ mất vía. Quân giặc gần đến nơi, chợt nghe đằng sau có tiếng trống đánh, rồi có một tướng đi lên trước, sau có một lá cờ lớn đề bốn chữ Ðại Hán Dương Phụng, kéo hơn một ngàn quân ra.
Nguyên Dương Phụng từ khi bị Lý Thôi đánh, dẫn quân đến đóng ở núi Chung Nam, nghe tin vua đi qua đấy nên đến để đi theo hộ giá. Giữa khi ấy quân Dĩ đến nơi. Hai bên dàn thành thế trận. Tướng Quách Dĩ là Thôi Dũng phóng ngựa ra, mắng Phụng là phản tặc. Phụng giận lắm, ngoảnh đầu lại gọi:
- Công Minh ở đâu?
Một tướng, tay cầm búa lớn, quất ngựa hoa lưu chạy ra, xông thẳng vào đánh Thôi Dũng. Hai ngựa giao nhau, chỉ một hiệp, đầu Dũng đứt rơi dưới chân ngựa.
Phụng thừa thế đánh tràn vào, Quách Dĩ thua to, lui hai mươi dặm.
Phụng thu quân bái kiến thiên tử. Vua dụ bảo rằng:
- Ngươi cứu được trẫm, công thực to!
Phụng cúi đầu lạy tạ. Vua phán hỏi:
- Tướng vừa chém được giặc là ai?
Phụng dắt tướng ấy lại lạy tạ ở dưới xa giá, rồi thưa rằng:
- Người này vốn ở Dương Quận, xứ Hà Ðông, họ Từ tên Hoảng, tên chữ là Công Minh.
Vua lấy lời phủ dụ. Dương Phụng hộ vệ xa giá đến đóng ở Hoa Âm. Tướng quân là Ðoàn i dâng y phục và đồ ăn uống. Ðên hôm ấy vua nghỉ trong trại Dương Phụng.
Quách Dĩ thua một trận, hôm sau đem quân kéo đến cửa trại thách đánh, Từ Hoảng cưỡi ngựa ra trước. Dĩ thả đại quân vây bọc tám mặt. Vua và Dương Phụng cùng bị khốn ở trong vây. Ðương lúc nguy cấp, chợt nghe mé Đông Nam, có tiếng reo nổi ầm, rồi thấy một tướng kéo quân mã đến, phá quân giặc tan vỡ. Từ Hoảng mới thừa thế đánh ra, quân Dĩ bị thua chạy tan vỡ.
Tướng ấy đến ra mắt vua, đó là quốc thích Ðổng Thừa. Vua khóc kể lại chuyện trước.
Thừa tâu rằng:
- Xin bệ hạ đừng lo, tôi xin cùng với Dương tướng quân thề chém hai đứa giặc ấy để yên thiên hạ.
Vua truyền lệnh đi mau đến Ðông Ðô. Xa giá đi suốt đêm ấy đên Hoằng Nông.
Quách Dĩ thua, kéo quân về, vừa gặp ngay Lý Thôi, Dĩ nói:
- Dương Phụng, Ðổng Thừa cứu giá đến Hoằng Nông rồi. Nếu để chúng đi được đến Sơn Ðông, có chỗ đứng chân vững vàng, tất nhiên sẽ bố cáo thiên hạ, mời chư hầu đến đánh anh em ta, thì ba họ nhà chúng ta cũng không giữ nổi.
Thôi nói:
- Nay Trương Tế đóng quân ở Trường An, chưa nên khinh động. Ngươi cùng ta nên tụ quân lại một nơi, rồi đến thẳng Hoằng Nông, giết phăng Hiến Ðế đi, chia thiên hạ làm đôi mỗi người một nửa thì có hay không?
Dĩ mừng lắm, xin vâng ngay. Hai người họp quân làm một, đi đến đâu cướp bóc vét sạch của dân đến đấy.
Dương Phụng, Ðổng Thừa nghe tin quân Thôi, Dĩ kéo đến, liền quay binh trở lại, đánh nhau to ở Ðông Giáu.
Thôi, Dĩ bàn với nhau rằng:
- Quân ta nhiều, quân chúng it. Ta cứ đánh bừa đi là được.
Nói xong rồi, Lý Thôi ở tả, Quách Dĩ ở hữu, kéo tràn quân lại, đầy cả núi, lấp cả đồng. Phụng, Thừa hai người cố liều chết mà đánh, chỉ giữ riết lấy xa giá của vua và hoàng hậu còn các quan, các cung nhân và sổ sách, đồ đạc, các thứ của vua dùng, phải vứt bỏ cả.
Quách Dĩ kéo quân vào Hoằng Nông cướp bóc, Ðổng Thừa, Dương Phụng hộ xa giá chạy sang Thiểm Bắc. Thôi, Dĩ chia quân hai đường đi đuổi. Thừa, Phụng một mặt sai người cùng với Quách Dĩ giảng hòa, một mặt mật đưa chiếu chỉ đến Hà Ðông, kíp với tướng Bạch Ba là Hàn Tiêm, Lý Nhạc và Hồ Tài, đem quân mã ba xứ lại cứu.
Lý Nhạc nguyên là giặc cỏ tụ tập ở núi rừng. Nay bất đắc dĩ cũng phải triệu đến.
Quân ba xứ được tin vua tha tội, lại cho làm quan, liền đem cả quân sĩ bản doanh của mình đến, phối hợp với Ðổng Thừa cùng nhau hội họp làm một lấy lại Hoằng Nông.
Bấy giờ Lý Thôi, Quách Dĩ đi đến đâu, cướp bóc đến đấy, người già yếu đem giết sạch, người khỏe mạnh bắt đi theo làm quân, khi nào đánh nhau bắt dân binh đi trước, gọi là quân cảm tử.
Thế giặc Lý, Quách to lắm. Quân Lý Nhạc đến gặp giặc ở Vị Dương.
Quách Dĩ sai quân đem áo sống, đồ đạc bỏ cả dọc đường. Quân Nhạc thấy áo sống ngổn ngang cả đất, tranh nhau nhặt lấy, nhốn nháo mất cả hàng ngũ. Thôi, Dĩ hai cánh quân đánh dồn lại. Quân Nhạc thua to. Dương Phụng chống chế không nổi, hộ giá chạy sang mặt Bắc. Quân giặc đuổi theo sau lưng. Lý Nhạc nói:
- Việc kíp rồi xin thiên tử lên ngựa đi trước.
Vua nói:
- Ta không nỡ bỏ trăm quan chạy lấy một mình.
Các quân cùng kêu khóc đi theo.
Hồ Tài bị quân giặc giết mất. Phụng, Thừa, thấy giặc đuổi gấp lắm, tâu xin vua xuống xe đi bộ.
Ði đến bờ Hoàng Hà, Lý Nhạc tìm được một chiếc thuyền nhỏ để sang sông.
Bấy giờ trời đang giá rét. Vua và hoàng hậu dắt nhau đến bờ sông, bờ cao quá không xuống được thuyền. Ðằng sau giặc sắp đến nơi.
Dương Phụng nói rằng:
- Nên cởi cương ngựa ra, chắp nối lại, buộc vào lưng vua, để đưa xuống thuyền.
Trong đám có Quốc Cữu là Phục Ðức cắp vài chục tấm lụa trắng, chạy lại nói rằng:
- Trong lúc quân rối loạn, tôi có nhặt được lụa này, xin đem để buộc.
Hành Quân Hiệu Úy là Thượng Hoằng lấy lụa buộc vào lưng vua và hoàng hậu, sai quân sĩ ròng vua xuống thuyền trước.
Lý Nhạc cầm thanh kiếm đứng ở đầu thuyền. Quốc cữu Phục Ðức (vốn là anh hoàng hậu) cõng hoàng hậu xuống.
Trên bờ những người chưa được xuống, tranh nhau vịn vào dây neo, Lý Nhạc lấy kiếm chặt dây rơi cả xuống nước. Khi chở được vua và hoàng hậu sang sông, lại đẩy thuyền lại để chở các quan và quân sĩ. Những người tranh nhau xuống trước bị chặt gẫy cả ngón tay kêu khóc rầm trời. Lúc sang được bên kia sông, tả hữu vua chỉ còn có hơn mười người.
Dương Phụng tìm được một cái xe trâu, rước vua đến Ðại Dương. Hôm ấy phải nhịn đói. Ðến tối mới kiếm được ngôi nhà ngói vào ngủ.
Các bô lão đem cơm dâng, để vua và hoàng hậu xơi, nhưng gạo xấu cơm hẩm, vua và hoàng hậu không sao nuốt được.
Hôm sau vua hạ chiếu phong cho Lý Nhạc làm chinh bắc tướng quân, Hàn Tiêm làm chinh đông tướng quân, rồi lại lên xa giá đi. Lúc đi có hai đại thần tìm đến khóc và lạy ở trước xa giá. Hai người ấy là thái úy Dương Bưu và thái bộc Hàn Dung. Vua và hoàng hậu cũng khóc. Hàn Dung mới tâu rằng:
- Lý Thôi, Quách Dĩ rất tin lời tôi, tôi nguyện liều thân sang dụ chúng bãi binh. Xin bệ hạ giữ lấy long thể.
Hàn Dung đi rồi, Lý Nhạc mời vua vào trại Dương Phụng tạm nghỉ, Dương Bưu lại mời vua về huyện An Ấp. Vua đến An Ấp không có nhà nào cao sạch, vua và hoàng hậu phải vào trọ trong nhà tranh, bốn mặt của ngõ không có, chỉ có rào gai tre. Vua và các quan đại thần vào trong nhà tranh ấy bàn việc. Các tướng đóng quân ở bên ngoài hàng rào để bảo vệ.
Bọn Lý Nhạc từ khi đến giúp vua, ra mặt chuyên quyền. Các quan hơi có ai nói chạm đến, chúng mắng liền ngay trước mặt vua. Chúng lại đưa cho vua ăn uống những rượu đục cơm thô. Vua cũng cứ phải cắn răng mà chịu.
Lý Nhạc và Hàn Tiêm lại có hơn hai trăm đầy tạ bộ hạ, nào thầy cúng, nào thầy thuốc. Hai đứa tâu cho làm hiệu úy, ngự sử cả. Khắc ấn không kịp, lấy dùi vạch gõ ra làm ấn, chẳng ra thể thống gì nữa.
Hàn Dung sang nói vại Lý Thôi, Quách Dĩ. Hai tên giặc ấy cũng nghe, tha cho các quan và những cung nhân được về.
Năm ấy mất mùa to. Trăm họ phải ăn những rau cỏ và ăn táo trừ bữa, chết đói khắp cả thôn dã.
Thái thú Hà Nội là Trương Dương dâng gạo thịt, thái thú Hà Ðông dâng lụa vải, vua cũng hơi được ung dung một chút.
Ðổng Thừa, Dương Phụng bàn nhau rằng:
- Ta nên sai người đi sửa lại các cung điện ở Lạc Dương để rước xa giá về Ðông Ðô.
Lý Nhạc không nghe, Ðổng Thừa mới bảo Nhạc rằng:
- Lạc Dương vốn là nơi thiên tử đóng đô. An Ấp là chỗ đất nhỏ, không sao để được xa giá ở đấy. Nay phụng giá về Lạc Dương là phải hơn.
Lý Nhạc nói:
- Có phải thế, các ông cứ việc phụng giá đi, ta cứ đóng ở đây.
Dương Phụng, Ðổng Thừa cứ phụng giá đem đi.
Nhạc ở lại, sai người kết liên với Lý Thôi, Quách Dĩ, bàn nhau cùng lại để cướp giá.
Phụng, Thừa với Tiêm biết trước được mưu ấy, liền đêm hôm ấy dàn bày quân sĩ, để gìn giữ giá vua, đi vụt ngay đến Cơ Quan. Lý Nhạc nghe tin ấy, không đợi quân Thôi, Dĩ đến nữa, tự mình dẫn quân mã bản bộ mình đi đuổi xa giá. Ðến canh tư đuổi kịp đến dưới núi Cơ Sơn, thét to lên rằng:
- Xa giá không được đi vội. Lý Thôi, Quách Dĩ ở đây! Vua Hiến Ðế sợ run không được.
Thế rõ thực là:
Khi xưa đôi giặc, đôi quân; Nay thì ba giặc hợp quần với nhau. Chưa biết vua Hiến Ðế phen này làm thế nào mà thoát nạn. Xem đến hồi sau sẽ rõ.
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 14: Tào Mạnh Ðức Rời Giá Đến Hứa Ðô Lữ Phụng Tiên Đang Đêm Cướp Từ Quận


Lý Nhạc đem quân đuổi theo xa giá, trá xưng là Lý Thôi, Quách Dĩ.
Vua giật mình lo sợ, Dương Phụng nói:
- Ðây là Lý Nhạc đấy.
Phụng sai Từ Hoảng ra đánh, Lý Nhạc tự mình ra địch.
Hai ngựa giao nhau, mới được một hiệp, Hoảng chém một nhát búa, Nhạc chết ngã dưới chân ngựa.
Bọn giặc còn lại chạy tan tác cả.
Phụng bảo vệ xa giá đi qua Cơ Quan, Thái Thú là Trương Dương đem thóc lúa ra đón ở cạnh đường, vua phong cho Dương làm Đại Tư Mã.
Dương từ tạ vua ra đóng đồn ở Giã Vương.
Vua vào Lạc Dương trông thấy của nhà bị đốt cháy hết cả; đường sá rậm rạp; cỏ mọc cao lấp mắt; trong cung điện chỉ có tường đổ, vách nát. Vua sai Dương Phụng cất tạm một cái cung nhỏ để ở.
Trăm quan vào triều mừng đều phải đứng trong đám gai góc.
Vua hạ chiếu đổi niên hiệu Hưng Bình làm Kiến An năm đầu.
Năm ấy mất mùa to. Dân Lạc Dương còn được vài trăm nóc nhà, cũng không có gì ăn, phải ra ngoài thành, bóc vỏ cây, đào rễ cỏ mà ăn.
Còn các quan thì từ Thượng Thư trở xuống cũng phải ra thành hái rau. Có nhiều người bị đè chết ở những chỗ tường đổ vách nát.
Khí vận đời nhà Hán lúc bấy giờ thực là suy đốn, không khi nào người ta từng thấy những cảnh khổ não nhường ấy.
Ðời sau có thơ than rằng:
Máu loang rắn trắng núi Mang Ðường
Cờ đỏ tung hoành khắp bốn phương.
Ðuổi sộc hươu Tần, gây xã tắc,
Ðạp quay ngựa Sở, mở phong cương.
Vua hèn nên để gian tà lắm;
Nước loạn sinh ra giặc giã hoang.
Trông thấy đôi kinh khi vận nạn,
Dẫu rằng dạ sắt cũng sinh thương.
Thái Úy là Dương Bưu tâu với vua rằng:
- Trước bệ hạ đã giáng chiếu, chưa kịp sai ai mang đi. Nay Tào Tháo ở Sơn Ðông, binh hùng tướng giỏi. Nên truyền gọi y vào chầu để giúp nhà vua.
Vua nói:
- Trước ta đã giáng chiếu rồi, ngươi không cần phải tâu nữa. Cứ sai người mang đi lập tức là xong.
Bưu lĩnh chỉ, sai ngay người sang Sơn Ðông với Tào Tháo.
Tào Tháo ở Sơn Ðông, nghe tin xa giá vua đã về đến Lạc Dương, họp những mưu sĩ để bàn.
Tuân Úc nói:
- Ngày xưa, Tấn Văn Công phụng Tương Vương vào làm vua, chư hầu ai cũng phục. Hán Cao Tổ để tang Nghĩa Ðế, ai cũng theo. Nay thiên tử mắc nạn, tướng quân nhân dịp này, cất nghĩa binh, phụng thiên tử để theo nguyện vọng của dân chúng, sách lược rất hay. Nếu ta không làm ngay, người khác sẽ làm trước ta.
Tháo mừng rỡ, đang thu xếp để cất quân đi thì có sứ giả nhà vua đem chiếu đến.
Tháo tiếp được tờ chiếu, cất quân đi liền.
Vua ở Lạc Dương, trăm việc còn thiếu thốn cả.
Thành quách đổ nát cũng chưa sửa sang được. Chợt lại có người báo rằng:
- Lý Thôi, Quách Dĩ lại sắp kéo quân đến.
Vua sợ hãi mới hỏi Dương Phụng:
- Sứ Sơn Ðông chưa về, nay quân Lý, Quách lại đến, làm thế nào bây giờ?
Dương Phụng, Hàn Tiêm đều nói:
- Hai chúng tôi xin hết sức đánh để bảo vệ bệ hạ.
Ðổng Thừa nói:
- Thành quách không bền, binh lính lại ít, đánh ngộ thua thì làm thế nào? Sao bằng rước giá tránh sang Sơn Ðông có hơn không?
Vua theo lời. Nay hôm ấy khởi giá sang Sơn Ðông. Trăm quan không người nào có ngựa cưỡi, đều đi bộ theo giá.
Vừa ra khỏi Lạc Dương, chưa đi được một bước đường nào, đã thấy ở đằng xa xa, bụi bốc mù trời, chiêng trống vang rầm, không biết cơ man nào là quân mã kéo đến. Vua và Hoàng Hậu run sợ quá không nói được, chợt thấy một tên kỵ mã đến, tức là sứ giả đi Sơn Ðông trở về. Sứ giả đến trước giá lạy rồi tâu rằng:
- Tào tướng quân khởi hết cả quân Sơn Ðông, vâng chiếu mệnh đến ngay và nghe thấy Lý Thôi, Quách Dĩ xâm phạm vào Lạc Dương, cho nên trước hết sai Hạ Hầu Ðôn làm tiên phong, dẫn mười viên tướng giỏi và năm vạn tinh binh lại đây trước để hộ giá.
Vua nghe thấy thế, trong bụng mới hơi yên. Ðược một lát quả Hạ Hầu Ðôn dẫn Hứa Chử, Ðiển Vi lại lấy quân lễ yết kiến vua.
Vua úy dụ vừa xong, lại có người báo:
- Mặt Đông có một toán quân kéo đến.
Vua sai Hạ Hầu Ðôn ra xem ai. Ðôn trở về tâu rằng:
- Ðó là một bộ quân của Tào Tháo đã đến.
Ðược một hồi Tào Hồng, Nhạc Tiến, Lý Ðiển vào ra mắt. Ba người tâu xưng tên tuổi xong, Hồng tâu rằng:
- Anh tôi thấy giặc sắp đến, sợ Hạ Hầu Ðôn không đánh nổi, nên sai chúng tôi đi gấp đường đến đây để giúp bệ hạ.
Vua mừng phán rằng:
- Tào tướng quân thế mới thực là bầy tôi xã tắc!
Vua phán rồi sai hộ giá để đi. Giữa lúc ấy lại có thám mã báo rằng:
- Lý Thôi, Quách Dĩ đem quân kéo tràn đến.
Vua sai Hạ Hầu Ðôn chia quân làm hai cánh ra đón đánh.
Một bên Ðôn, một bên Hồng, chia ra hai đường, quân kỵ đi trước, quân bộ đi sau, đánh nhau rất hăng với Lý Thôi, Quách Dĩ.
Quân Thôi, Dĩ thua to. Ðôn, Hồng chém được hơn một vạn đầu giặc; vững thế rồi xin rước vua đi trở lại Lạc Dương. Vua trở về cung, Hạ Hầu Ðôn đóng quân ở ngoại thành.
Hôm sau, Tào Tháo tự lĩnh đại đội binh mã kéo đến. Lập trại đâu vào đấy rồi vào ra mắt vua, lạy ở dưới thềm.
Vua cho Tháo đứng dậy, tuyên dụ ôn tồn. Tháo tâu rằng:
Tôi được nhờ ơn nhà nước, lúc nào cũng lo việc báo đền. Nay Lý Thôi, Quách Dĩ hai đứa giặc đầy tội ác. Tôi có hai mươi vạn tinh binh, lấy chính nghĩa đánh gian tà, thế nào cũng thắng, đánh tất phải được. Xin bệ hạ giữ gìn long thể, lấy xã tắc làm trọng.
Vua liền phong cho Tào Tháo lĩnh chức Tư Lệ Hiệu Úy, cho cờ tiết và lưỡi phủ việt, coi tòa thượng thư.
Lý Thôi, Quách Dĩ biết Tháo từ xa mới đến, bàn nhau muốn đánh ngay.
Giả Hủ can rằng:
- Không nên, Tào Tháo binh hùng, tướng dũng. Không bằng đầu hàng may ra thì khỏi phải tội.
Lý Thôi giận mắng rằng:
- Ngươi dám làm nhục nhuệ khí của ta!
Nói rồi rút kiếm toan chém Giả Hủ. Các tướng cố sức ngăn can, mới tha. Ðêm hôm ấy Giả Hủ lên ngựa một mình về thẳng quê nhà.
Hôm sau, Lý Thôi đem quân mã đến đánh quân Tào Tháo.
Tháo sai Hứa Chử, Tào Nhân, Ðiển Vi lĩnh ba trăm quân thiết kỵ đem ra riễu ở trước trận Lý Thôi ba vòng rồi mới bày trận.
- Bên giặc, cháu Lý Thôi là Lý Thiêm, Lý Biệt cưỡi ngựa ra trước.
Chưa kịp nói điều nào, Hứa Chử đã tế ngựa xông vào, đưa một nhát đao, Lý Thiêm chết quay xuống đất.
Lý Biệt trông thấy giật mình cũng ngã ngựa, rồi bị Hứa Chử chém nốt.
Chử xách hai đầu chạy về.
Tào Tháo mừng vỗ vào lưng Hứa Chử nói rằng:
- Anh thực là Phàn Khoái của ta.
Liền sai Hạ Hầu Ðôn đem quân ra mặt tả, Tào Nhân lĩnh quân ra mặt hữu, Tháo tự lĩnh trung quân xông vào trận.
Một tiếng trống nổi lên, ba đội quân cùng tiến. Quân giặc chống cự không nổi, thua chạy.
Tháo cầm thanh bảo kiếm thúc quân vào, đuổi giết suốt đêm.
Giặc chết nhiều lắm, xin hàng không biết bao nhiêu mà kể.
Thôi, Dĩ chạy trốn về phía Tây, hạt ha hớt hoảng, như chó lạc chủ; tự biết thân không còn nương tựa vào đâu được nữa, hai đứa cùng trốn vào nơi rừng rú làm giặc cỏ kiếm ăn.
Tào Tháo đem binh về, đóng đồn ở ngoài thành Lạc Dương.
Dương Phụng, Hàn Tiêm hai người bàn với nhau rằng:
- Tào Tháo phen này có công to, tất sẽ nắm trọng quyền, sao còn dung bọn chúng ta?
Bèn vào tâu với vua, rồi mượn tiếng xin đi đuổi Lý Thôi, Quách Dĩ, kéo quân bản bộ của mình sang đóng ở Ðại Lương.
Một hôm vua sai sứ vào trại Tào Tháo, để gọi Tháo vào cung bàn việc.
Tháo nghe tin có sứ đến, mời vào đinh thì thấy người ấy mày cong mắt đẹp, tinh thần sảng khoái. Tháo nghĩ thầm rằng:
- Nay ở Ðông Quận này trời làm đói kém, từ quân lính cho chí dân, ai ai cũng có vẻ đói, sao người này béo tốt được như thế này.
Nhân mới hỏi ngay rằng:
- Tôi trông mặt ngài đầy đặn lắm, xin dám hỏi điều dưỡng như thế nào mà được như vậy?
Sứ thưa rằng:
- Thưa tôi cũng không có phép gì lạ cho lắm, vốn chỉ ăn nhạt ba mươi năm nay!
Tháo gật đầu hỏi rằng:
- Ngài hiện làm chức gì?
Sứ nói:
- Tôi vốn đỗ khoa Hiếu Liêm, nguyên làm chức Tùng Sự theo Viên Thiệu và Trương Dương. Nay nghe tin thiên tử đã về đô, tôi đến chầu vua, được phong làm Chánh Nghị Lang. Tên tôi là Ðổng Chiêu, biểu tự Côn Nhân, quê ở Tế Âm, xứ Ðịnh Ðào.
Tháo đứng dậy nói rằng:
- Tôi nghe tiếng ngài đã lâu, nay may được thừa tiếp ngài ở đây.
Nói rồi Tháo đặt tiệc rượu ở trong trướng để khoản đãi rồi lại gọi Tuân Úc ra cùng hội kiến.
Chợt tin báo có một đội quân đi sang phía Ðông, không biết quân nào.
Tháo hỏi rằng:
- Họ có bụng nghi tôi chăng?
Ðổng Chiêu nói:
- Chúng là lũ vô mưu. Minh công hà tất phải lo.
Tháo lại hỏi:
- Thế còn Lý, Quách chuyến này chúng kéo đi thì rồi ra thế nào?
Chiêu thưa:
- Hổ không vuốt, chim gẫy cánh, chẳng mấy lúc sẽ bị minh công bắt được, cần gì phải để ý.
Tào Tháo thấy Ðổng Chiêu nói câu nào cũng lọt tai, bèn hỏi đến những việc lớn trong triều.
Chiêu nói rằng:
- Minh công cất quân nghĩa binh để trừ bạo loạn, vào triều giúp thiên tử, ấy là công nghiệp của ngũ bá. Nhưng các tướng mỗi người một bụng, vị tất họ đã theo phục cả. Nay minh công ở mãi đây, tôi e có điều bất tiện. Chỉ có cách rước vua về Hứa Ðô là hơn. Nhưng triều đình xiêu dạt mãi, mới về được kinh đô xa gần trông mong, ai cũng muốn được yên ổn một chút. Nay lại rời xa giá đi nơi khác, chắc lòng người cũng không phục. Nhưng ở đời có làm được việc phi thường mới có công phi thường. Xin minh công quyết kế đi.
Tháo cầm lấy tay Chiêu cười nói rằng:
- Ấy vẫn là bản chí tôi đó! Nhưng tôi còn e rằng Ðại Lương có Dương Phụng, ở trong triều có các đại thần, đã chắc đâu không sinh biến được!
Chiêu nói:
- Lo chi việc đó! Minh công nên đưa thư sang cho Dương Phụng để cho hắn yên tâm, rồi nói rõ cho các đại thần rằng kinh đô bây giờ không có lương. Rước xa giá sang Hứa Ðô để được gần Lỗ Dương, vận lương cho tiện, không đến nỗi xa xôi thiếu thốn như ở đây. Các đại thần nghe rõ, đều vui lòng nghe theo.
Tháo nghe lời Chiêu nói, mừng rỡ quá chừng. Khi Chiêu từ biệt, Tháo lại nắm tay nói rằng:
- Về sau tôi có làm việc gì xin ngài dạy bảo cho!
Chiêu tạ rồi cáo về.
Từ đó, Tào Tháo ngày ngày bàn với mưu sĩ về việc rời đô.
Bấy giờ thái sử lệnh là Vương Lập, một bữa nói riêng với tôn chính là Lưu Ngải rằng:
- Tôi có xem thiên văn từ mùa xuân năm ngoái đến giờ, sao Thái Bạch (sao kim) phạm vào sao Trấn Tinh ở khoảng sau Ngưu và sao Ðẩu, rồi lại qua dải Ngân Hà; và sao Thái Bạch gặp nhau ở Thiên Quan. Kim với Hỏa hội với nhau, tất nhiên có vua mới ra. Tôi xem khí vận nhà Hán đã hết, trong đất Tấn, Ngụy tất có người nổi lên.
Vương Lập lại mật tâu với vua rằng:
- Mệnh trời lúc đến, lúc đi, ngũ hành thịnh suy bất thường. Thay Hỏa là Thổ, thay nhà Hán có lẽ là ở đất Ngụy.
Tào Tháo nghe tin ấy, sai người bảo Lập rằng:
- Tôi cũng biết ông trung với triều đình, nhưng thiên cơ huyền bí lắm, xin ông chớ nói nhiều.
Táo đem chuyện ấy thuật lại với Tuân Úc.
Úc nói:
- Nhà Hán vốn lấy đức Hỏa làm vua. Mà Minh Công lại mình Thổ, Hứa Ðô cũng thuộc Thổ, đến đấy tất hay. Hỏa sinh Thổ, mà Thổ thì vượng Mộc. Chính hợp với lời Ðổng Chiêu, Vương Lập. Minh Công tất sau này phát lớn.
Từ ấy Tào Tháo nhất quyết thiên đô.
Hôm sau Tháo vào ra mắt vua tâu rằng:
- Ðông Ðô bị tàn phá đã lâu, bấy giờ không sửa sang lại được, vả lại chuyển vận lương thực, vất vả khó nhọc lắm. Hứa Ðô gần Lỗ Dương; thành quách, cung thất, tiền lương, người, của cải gì cũng có đủ. Tôi xin rước xa giá về Hứa Ðô. Ngửa trông lượng thánh ưng cho.
Vua phải nghe. Các quan ông nào cũng sợ Tào Tháo mạnh thế không ai dám ngăn điều gì, liền chọn ngày để khởi giá. Tháo tự dẫn quân đi trong nom. Các quan cũng đi theo cả.
Ði chưa được vài dặm đến một chỗ gò cao, bỗng thấy tiếng reo ầm ầm, rồi thấy Dương Phụng, Hàn Tiêm kéo quân ra chẹn đường.
Từ Hoảng đứng đầu kêu to lên rằng:
Tào Tháo cướp thánh giá đem đi đâu?
Tháo phóng ngựa ra xem, trông thấy Từ Hoảng uy phong lẫm liệt, có lòng khen thầm, liền sai Hứa Chử ra trận.
Hai người bên đao bên búa, đánh nhau hơn năm mươi hiệp chưa thấy bên nào được bên nào thua.
Tháo sai gõ chiêng rút quân về, gọi các mưu sĩ lới bàn rằng:
- Dương Phụng, Hàn Tiêm không đáng kể, chỉ có Từ Hoảng thực là tướng tài. Ta không nỡ lấy sức mạnh địch lại, muốn dùng kế chiêu dụ thì hơn.
Hành quân tùng sự là Mãn Sủng nói:
- Chúa công đừng lo. Tôi với Từ Hoảng, có quen biết nhau. Tối hôm nay để tôi giả làm tên lính, lẩn vào trại anh ta, tôi thuyết phục anh ta, anh ta sẽ sang hàng chúa công.
Tào ưng ý lắm, cho Sủng đi.
Ðêm hôm ấy Sủng ăn mặc giả làm tên lính, đi lộn vào đội quân bên kia, lẻn đến trước màn Tử Hoảng, thấy Hoảng thắp nến mặc áo giáp đang ngồi. Sủng đánh bạo xông đến tận trước mặt, vái rồi hỏi rằng:
- Cố nhân lâu nay vẫn mạnh khỏe?
Hoảng giật mình đứng dậy, nhìn kỹ Sủng rồi hỏi rằng:
- Anh có phải là Man Bá Minh ở Sơn Dương đó không? Có việc gì đến đây?
Sủng nói:
- Tôi hiện đang làm Tùng Sự ở dinh Tào tướng quân, hôm nay ở trước trận, trông thấy cố nhân, muốn dâng một câu nói, nên liều chết lại đây.
Hoảng mời ngồi, hỏi ý làm sao. Sủng nói:
- Ông là người dũng lược, đời nay hiếm có, sao lại phải khuất thân đi theo bọn Dương Phụng, Hàn Tiêm. Tào tướng quân là đấng anh hùng thời nay, biết yêu người hiền, kính kẻ sĩ, thiên hạ đều biết tiếng. Hôm nay ở trước trận, thấy ông khỏe mạnh, trong bụng mười phần kính yêu, không nỡ sai tướng khỏe ra để giết nhau. Bởi vậy Tào công sai tôi đến đây để mời ông. Xin ông bỏ chỗ tối, qua nơi sáng, để cùng Tào công làm nên nghiệp lớn.
Từ Hoảng nghĩ ngợi một hồi, chép miệng than rằng:
- Ta cũng biết Dương Phụng, Hàn Tiêm không phải là tay lập được nghiệp, nhưng theo đã lâu rồi, bây giờ không nỡ bỏ.
Sủng lại nói:
- Ông há lại không biết rằng: chim khôn tìm cây mà đậu, người hiền chọn chủ mà thờ. Nay ông đã gặp được chủ đáng thờ, bỏ lỡ mất cơ hội tốt sao gọi là người trượng phu?
Hoảng đứng dậy tạ nói rằng:
- Xin nghe lời ngài dạy!
Sủng nói:
- Ðã vậy, sao ông không giết ngay Dương Phụng, Hàn Tiêm để làm lễ yết kiến.
Hoảng nói:
- Làm bầy tôi mà giết chủ, điều ấy thực là bất nghĩa, tôi quyết không làm!
Sủng nói:
- Ông thực là người nghĩa sĩ!
Từ Hoảng liền dẫn vài mươi tên kỵ mã, ngay đêm hôm ấy cùng với Mãn Sủng, chạy sang trại Tào Tháo.
Có người báo với Dương Phụng, Phụng giận lắm đem ngay một ngàn kỵ mã đuổi theo, gọi to lên rằng:
- Phản tặc Từ Hoảng đừng chạy nữa!
Trong khi đang đuổi, chợt nghe thấy một tiếng pháo nổ, trên núi dưới đống lửa đuốc sáng choang, quân phục bốn mặt kéo ra. Tào Tháo tự dẫn quân đi trước, quát lên rằng:
- Ta đợi đây đã lâu. Chớ để cho bọn chúng chạy thoát.
Dương Phụng khiếp đảm, chực thu quân về nhưng đã bị quân Tào vây bọc.
May đâu, giữa lúc ấy Hàn Tiêm kéo quân lại cứu.
Hai bên đánh nhau, Phụng chạy được thoát; Tháo thừa thế đánh.
Quân sĩ Phụng, Tiêm đầu hàng quá nửa.
Hai người thế cô, nhặt nhạnh quân sót rồi sang với Viên Thuật.
Tháo thu quân về dinh, bấy giờ Mãn Sủng dẫn Từ Hoảng vào ra mắt.
Tháo mừng rỡ, đãi Từ Hoảng rất hậu, rồi rước loan giá về Hứa Ðô sửa sang nhà cửa, cung miếu, lập tôn miếu, xã tắc, cùng các tòa, các dinh và các nha môn; lại xây thành quách, lập kho tàng.
Lũ Ðổng Thừa cả thẩy ba mươi người, đều được phong làm liệt hầu.
Thưởng người có công, phạt kẻ có tội, các việc hết thẩy đều do Tào Tháo coi xét.
Tháo tự phong mình làm đại tướng quân, Vũ Bình Hầu; Tuân Úc làm Thị Trung Thượng Thư Lịnh; Tuân Du làm Quân Sư; Quách Gia làm Tư Mã Tế Tửu, Lưu Việp làm Tư Thông Duyện Tào; Mao Giới, Nhiệm Tuấn làm Điểm Nông Trung Lang Tướng, coi về việc thúc đốc tiền lương; Trình Dục làm tướng ở quận Ðông Bình; Phạm Thành, Ðổng Chiêu làm quan lịnh ở Lạc Dương; Mãn Sủng làm quan lịnh ở Hứa Ðô; Hạ Hầu Ðôn, Tào Hồng, Tào Nhân đều làm tướng quân; Lã Kiền, Lý Ðiển, Nhạc Tiến, Vu Cấm, Từ Hoảng đều làm Hiệu Úy; Hứa Chử, Ðiển Vi làm Đô Úy. Còn bao nhiêu tướng sĩ đều phong quan cả.
Từ đấy quyền to trong nước đều vào tay Tào Tháo. Nội các việc lớn triều đình, trước trình Tào Tháo, sau mới tâu vua.
Khi Tháo đã định xong việc lớn, mới mở một cuộc yến ở hậu đường, họp các mưu sĩ lại bàn rằng:
- Lưu Bị đóng quân ở Từ Châu, tự lĩnh chức, coi việc ở đó. Mới rồi Lữ Bố nhân ta đánh thua, cũng chạy về đấy, Bị cho ở Tiểu Bái. Nếu hai người ấy đồng tâm kéo đến xâm phạm vào Hứa Ðô, cũng là một điều nguy, ta vốn trong bụng vẫn lo việc ấy. Các ông có nghĩ được kế gì trừ được hai người ấy không?
Hứa Chử nói:
- Tôi xin lĩnh năm vạn tinh binh, đi chém được đầu Lưu Bị, Lữ Bố đem vào dâng thừa tướng.
Tuân Úc lại can Hứa Chử rằng:
- Tướng quân khỏe thì khỏe thực, nhưng tướng quân không biết dùng mẹo. Nay Hứa Ðô mới dựng, chưa được vững vàng, chưa nên hấp tấp cất quân. Tôi xin hiến một kế, gọi là kế Hai Hổ Tranh Ăn. Lưu Bị bây giờ lĩnh ở Từ Châu, nhưng chưa có chiếu mệnh. Vậy minh công nên tâu Hoàng thượng giáng chiếu cho y được thực thụ làm chức mục Từ Châu; nhân thể đưa cho Lưu Bị một bức mật thư sai y giết Lữ Bố. Nếu Lưu Bị tuân lệnh giết được Lữ Bố thì y mất tay phù tá; bằng y không giết nổi thì Lữ Bố giết y. Thế gọi là cái kế hai hổ tranh ăn.
Tào Tháo nghe kế ấy, liền tâu xin chiếu mệnh, rồi sai ngay sứ sang Từ Châu, phong cho Lưu Bị làm Chinh Đông tướng quân, Nghi Thành Đình Hầu, lĩnh Từ Châu mục, lại đưa thêm một phong mật thư.
Lưu Bị ở Từ Châu, nghe tin vua dời đô sang Hứa Ðô, sắp sửa dâng biểu chúc mừng, chợt có người báo: có sứ nhà vua đến.
Bị ra đón rước vào thành, lạy tạ ân mạng xong rồi, mở yến thiết đãi sứ giả.
Sứ nói:
- Ngài được ân mạng này, đều là nhờ có Tào Thừa Tướng hết sức tiến cử.
Lưu Bị tạ ân. Sứ bấy giờ mới đưa mật thư ra, Lưu Bị xem xong thư nói rằng:
- Việc này xin để thong thả cho tôi bàn luận.
Tiệc tan, Bị mời sứ giả ra nghỉ ngoài quán khách, đêm hôm đó bàn với các tướng.
Trương Phi nói:
- Lữ Bố là người vô nghĩa, giết hắn đi có ngại gì.
Lưu Bị nói:
- Người ta thề cùng về với ta. Nếu ta giết đi, thế là bất nghĩa.
Trương Phi nói:
- Làm người tốt khó lắm!
Lưu Bị nhất định không nghe.
Hôm sau, Lữ Bố lại mừng. Lưu Bị cho ra mời vào, Bố nói:
Nghe ngài mới được ân mệnh triều đình, nên tôi đến mừng.
Lưu Bị cám ơn. Trong khi ấy Trương Phi cầm kiếm đợi ở cổng đường, định Lữ Bố ra thì giết.
Lưu Bị trông thấy vội vàng ngăn lại.
Lữ Bố kinh hãi, nói rằng:
- Dực Ðức chỉ lăm lăm giết ta, là cớ làm sao?
Trương Phi thét lên rằng:
- Tào Tháo bảo ngươi là đứa vô nghĩa, bảo anh ta giết ngươi.
Lưu Bị vội vàng quát Trương Phi ra, mời Lữ Bố vào hậu đường, nói rõ đầu đuôi, rồi đưa mật thư của Tào Tháo cho Lữ Bố xem.
Lữ Bố xem xong thư, khóc nói rằng:
- Ấy là tên giặc Tào hắn muốn cho hai chúng ta không được hòa với nhau đó.
Lưu Bị nói:
- Xin anh đừng lo. Tôi quyết không bao giờ làm điều bất nghĩa ấy.
Lữ Bố hai ba lần bái tạ. Bị giữ Bố lại uống rượu mãi đến chiều mới về.
Lữ Bố về, Quan, Trương mới hỏi Lưu Bị rằng:
- Huynh trưởng làm sao không giết Lữ Bố?
Lưu Bị nói:
- Ðó là Tào Tháo hắn sợ ta cùng với Lữ Bố đồng mưu đánh hắn, cho nên hắn dùng kế ấy, để cho hai bên giết lẫn nhau. Sao mình lại có thể để cho hắn lợi dụng được.
Quan Công gật đầu bảo: Phải!
Trương Phi nói:
Tôi chỉ muốn giết tên giặc ấy để khỏi phải lo về sau.
Lưu Bị nói:
- Làm thế sao gọi là trượng phu?
Hôm sau Lưu Bị tiễn sứ giả về kinh; dâng biểu tạ ân và đưa thư trả lời Tào Tháo, nói xin để thong thả sẽ làm.
Sứ về kinh vào ra mắt Tào Tháo, thuật chuyện Huyền Ðức không giết Lữ Bố.
Tào Tháo mới hỏi Tuân Úc:
- Kế ấy không xong làm thế nào?
Úc nói:
- Tôi lại có một kế nữa, gọi là kế xua hổ nuốt sói.
Tháo nói:
- Kế ấy thế nào?
Úc nói:
- Tướng quân nên sai người đi hỏi thăm Viên Thuật, rồi mật bảo Thuật rằng: Lưu Bị dâng mật biểu muốn lấy Nam Quận, Thuật tất giận đánh Lưu Bị. Minh công lại đưa chiếu rõ ràng sai Lưu Bị đánh Viên Thuật. Hai bên đánh nhau, Lữ Bố tất sinh bụng khác, thế gọi là: xua hổ cho nó nuốt sói.
Tháo ưng ý lắm, một mặt sai ngay người đến Viên Thuật, một mặt lấy chiếu vua, sai đem đến Từ Châu.
Lưu Bị ở Từ Châu nghe có sứ đến, ra thành mời đón vào.
Bị mở chiếu ra đọc, chiếu sai Lưu Bị khởi binh đánh Viên Thuật. Lưu Bị vâng lệnh, tiễn sứ về trước.
My Chúc nói:
- Ðây lại là kế Tào Tháo!
Lưu Bị nói:
- Ðành là kế của Tào Tháo, nhưng lệnh vua thì phải vâng theo.
Nói rồi lập tức điểm quân mã, ngay hôm ấy kéo đi.
Tôn Càn nói:
- Trước hết hãy nên cử người giữ lấy thành.
Quan Công thưa:
- Em xin giữ.
Lưu Bị nói:
- Ta sớm tối lúc nào cũng cần đến em bàn các việc, rời nhau ra làm sao được?
Trương Phi nói:
- Em xin giữ.
Lưu Bị bảo Phi rằng:
- Em thì giữ làm sao được! Một là em rượu vào hung hăng lên, đánh lính tráng, hai là em làm việc gì cũng coi thường, không chịu nghe ai can gián. Ta không đành lòng.
Phi nói:
- Từ giờ trở đi, em xin không uống rượu. Không đánh lính tráng, ai can bảo gì em cũng xin nghe.
My Chúc nói:
- Tôi e rằng bụng nghĩ không được như miệng nói.
Phi giận mắng My Chúc rằng:
- Ta theo anh ta đã lâu năm, chưa từng có thất tín câu nào, sao ngươi dám khinh ta như thế?
Lưu Bị nói rằng:
- Ðã đành như thế, nhưng ta vẫn chưa yên tâm. Em nên mời Trần Nguyên Long lại đây để giúp; sớm chiều từ nay em phải bớt uống rượu, đừng để hỏng sự mới được.
Trần Ðăng vâng lĩnh lời. Lưu Bị dặn dò đâu đấy cả rồi, dẫn ba vạn quân mã bộ, rời Từ Châu sang Nam Dương.
Viên Thuật nghe thấy tin Lưu Bị dâng biểu muốn lấy châu huyện, giận lắm nói rằng:
- Hắn là đứa dệt chiếu, đóng dép, nay chiếm giữ được quận to, đứng ngang với chư hầu. Ta định đánh hắn, hắn nay lại định sửa ta à? Thực là tức quá!
Thuật nói rồi, liền sai thượng tướng là Kỷ Linh dẫn mười vạn quân kéo sang Từ Châu.
Hai bên gặp nhau ở Vu Thai.
Lưu Bị ít binh, dựa vào cạnh núi, men sông đóng trại.
Kỷ Linh, là người ở Sơn Ðông, sử dụng một thanh đao ba mũi, nặng năm mươi cân, hôm ấy kéo quân ra trận, quát mắng rằng:
- Lưu Bị là một đứa thôn phu. Sao dám xâm phạm vào đất ta?
Lưu Bị nói:
- Ta nay phụng chiếu của vua sang đây đánh kẻ nghịch thần. Sao ngươi dám kháng cự. Tội ngươi đáng chết!
Kỷ Linh giận lắm, múa đao xông vào đánh.
Quan Vũ quát rằng:
- Thằng thất phu kia, chớ được cậy khỏe!
Nói rồi tế ngựa ra đánh nhau với Kỷ Linh. Ðánh được hơn ba mươi hiệp, chưa phân bên nào được bên nào thua, Kỷ Linh kêu to lên: Hãy nghỉ!.
Quan Công quay ngựa về đứng đợi ở cửa trận.
Kỷ Linh sai phó tướng là Tuân Chính ra.
Quan Công không thèm đánh, bảo rằng:
- Ngươi về gọi Kỷ Linh ra đây!
Chính nói:
- Ngươi là vô danh hạ tướng, không xứng đánh nhau với Kỷ tướng quân.
Quan Công điên ruột, xông vào chém Tuân Chính, chỉ một nhát chết ngay.
Lưu Bị thúc quân đánh tràn vào trận.
Kỷ Linh thua to, lui về giữ ở cửa sông Hoài Âm không dám ra đánh nữa, chỉ sai quân sĩ cướp dinh rình trại, nhưng hễ tên nào ra thì quân Từ Châu đánh giết phải thua chạy.
Nay ta hãy để hai bên chống cự nhau, mà nói chuyện Trương Phi ở nhà giữ việc Từ Châu.
Từ khi Lưu Bị đi, bao nhiêu việc tạp vụ, Trương Phi giao mặc Trần Ðăng coi sóc, còn việc quân cơ lớn thì tự mình suy xét làm lấy.
Một hôm Phi mở một tiệc yến, mời các quan đến ăn. Các quan ngồi đâu đó rồi, Trương Phi mời nói rằng:
Khi anh tôi đi, có dặn nên bớt uống rượu, sợ rằng say sưa rồi hỏng việc, vậy tôi xin mời các quan hôm nay uống một bữa thực say, rồi từ mai trở đi, cấm hẳn, không ai được uống nữa, phải giúp tôi để giữ thành trì. Hôm nay phải uống cho thực say mới được!
Trương Phi nói xong, đứng dậy cầm chén mời các quan. Khi cầm chén đến trước mặt Tào Báo, Báo từ chối rằng:
- Tôi theo thiên giới không uống rượu.
Phi nói:
- Những hảo hán đánh nhau giết người, sao lại không uống rượu. Hôm nay, ta muốn ngươi uống một chén.
Tào Báo sợ quá cố uống một chén.
Trương Phi cầm chén mời tất cả các quan, rồi rót một cốc thực to ình, hớp một hớp hết nhẵn, lại rót cốc nữa, làm một chập đủ mười cốc rựu đầy.
Lúc bấy giờ ý chừng say quá, Trương Phi lại đứng dậy cầm chén đi vòng mời các quan, khi đi đến trước Tào Báo, Báo nói:
- Tôi thực không sao uống được nữa.
Phi hỏi:
- Ngươi vừa uống được sao bây giờ lại từ chối.
Báo nhất định không uống.
Trương Phi bấy giờ say rượu nóng tính, nổi giận mắng rằng:
- Ngươi dám trái tướng lệnh ta, đáng đánh một trăm roi.
Trần Ðăng can rằng:
- Khi ông Huyền Ðức đi dặn ông như thế nào?
Phi nói:
- Ngươi là quan văn, chỉ coi việc văn thôi, đừng có cai quản ta ở đây!
Tào Báo không làm sao được, kêu rằng:
- Xin Dực Ðức nể mặt con rể tôi mà tha lỗi cho tôi!
Phi hỏi:
- Rể ngươi là ai?
Báo thưa:
- Lữ Bố!
Phi giận lắm quát rằng:
- Ta vốn không muốn đánh ngươi, nay ngươi lại đem Lữ Bố dọa ta, thì ta đánh, ta đánh ngươi cũng như đánh tên Lữ Bố.
Các quan xô cả lại can cũng không được.
Quân lính lôi Tào Báo ra đánh đến năm mươi roi, các quan năn nỉ ngăn can mãi mới thôi.
Tiệc tan.
Tào Báo trở về, giận quá, ngay đêm hôm ấy sai người cầm phong thư, đi tắt đến Tiểu Bái, vào ra mắt Bố, kể hết đầu đuôi chuyện Trương Phi vô lễ.
Trong thư lại nói rằng:
"Lưu Bị đã sang Hoài Nam, đêm hôm nay nhân Trương Phi say rượu, kéo quân đến đánh úp lấy Từ Châu, là một dịp ít có, không nên để lỡ"
Lữ Bố xem xong thư, ời Trần Cung đến bàn, Cung nói:
- Tiểu Bái không phải là nơi ở lâu được. Nay Từ Châu đã có cơ lấy được, không lấy ngay đi, sau hối không kịp.
Bố nghe lời, lập tức mặc áo giáp lên ngựa, dẫn năm trăm kỵ mã đi trước, sai Trần Cung dẫn đại quân đi sau. Cao Thuận cũng kéo quân đến theo.
Tiểu Bái cách Từ Châu có bốn mươi dặm, đi một thôi ngựa thì đến. Lữ Bố đến dưới thành, lúc đầu canh tư trăng sáng vằng vặc, trên thành không ai biết. Lữ Bố đến tận bên thành gọi rằng:
- Lưu sứ quân có việc cơ mật sai người đến.
Trên thành có quân báo với Tào Báo, Báo lên thành xem rồi sai quân sĩ mở cửa ra. Bấy giờ Lữ Bố mới nổi một tiếng hiệu, quân sĩ đều kéo ùa vào thành, tiếng reo kinh động.
Trương Phi say rượu đang ngủ ở trong nhà. Tả hữu vội vàng lay tỉnh dậy bảo rằng:
- Lữ Bố đã lừa mở được cửa thành, quân hắn kéo cả vào rồi.
Trương Phi giận quá, vội vàng mặc áo giáp, vác ngọn bát xà mâu, vừa ra được cửa phủ lên được mình ngựa, thì quân Lữ Bố đến nơi. Bấy giờ Phi hãy còn say rượu, không đánh được khỏe. Lữ Bố cũng biết sức mạnh của Trương Phi, không dám đánh ráo riết quá.
Mười tám tướng kỵ mã nước Yên bảo vệ Trương Phi, chạy ra cửa Ðông.
Vợ con Lưu Bị ở trong phủ, Trương Phi cũng không kịp nhìn đến.
Tào Báo thấy Trương Phi chỉ còn vài mươi người đi theo, lại khinh y còn say, đem hơn một trăm người ra đuổi.
Phi trông thấy Báo, giận lắm, tế ngựa lại đánh, chỉ ba hiệp, Tào Báo thua chạy.
Trương Phi đuổi đến bờ sông, cầm ngọn mâu từ đằng xa phóng lại, trúng giữa lưng Tào Báo, cả người lẫn ngựa chết lăn xuống sông.
Trương Phi đứng ngoài thành, hò gọi quân sĩ. Người nào ra được đều theo y đi sang Hoài Nam.
Lữ Bố vào được thành, phủ dụ dân rồi sai một trăm quân giữ cửa nhà Lưu Bị, không cho ai được vào.
Trương Phi dẫn vài mươi tên kỵ mã đi thẳng đến Vu Thai vào hầu Lưu Bị, nói hết cả chuyện Tào Báo cùng Lữ Bố, trong ứng ngoài hợp, đang đem đánh úp lấy Từ Châu.
Các quan nghe chuyện ai cũng mất máu mặt, duy Lưu Bị chỉ than có một câu:
- Ðược cũng chẳng nên mừng, mất cũng chẳng nên lo!
Quan Vũ hỏi:
- Thế còn chị đâu?
Trương Phi nói:
- Hãm cả ở trong thành.
Lưu Bị nín lặng chẳng nói câu gì.
Quan Công dẫm chân mắng rằng:
- Khi trước ngươi đòi giữ thành, nói những câu gì? Anh dặn ngươi như thế nào? Bây giờ thành trì thì mất, chị lại bị hãm, thế ra làm sao?
Phi nghe anh mắng, sợ hãi không biết đường nào, rút ngay kiếm ra định tự vẫn.
Thế thực là:
Nghiên bầu nốc rượu sao vui?
Rút kiếm tự vẫn sự thôi đã rồi!
Chưa biết tính mạng Trương Phi ra sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 15: Thái Sử Từ Ham Đả Tiểu Bá Vương Tôn Bá Phù Hăng Đánh Nghiêm Bạch Hổ


Cuối hồi trước, đang nói chuyện Trương Phi rút kiếm ra sắp tự vẫn, Lưu Bị trông thấy vội vàng bước lên giật lấy kiếm, vứt xuống đất rồi nói rằng:
- Xưa có câu rằng: "Anh em như chân tay, vợ con như áo mặc". Áo rách còn dễ may, chân tay gãy, chắp sao được? Ba anh em ta kết nghĩa với nhau ở vườn đào, đã thề cùng sống chết với nhau. Nay dù mất thành trì, vợ con đi nữa, sao nở để anh em nửa đường chết đi cho đành. Phương chi thành trì không phải của ta, vợ con ta bị hãm ở trong thành, nhưng ta chắc Lữ Bố không nỡ giết, cũng còn nghĩ kế cứu được. Hiền đệ lầm một lúc, việc gì đã đến nỗi quyên sinh?
Lưu Bị nói xong rỏ nước mắt khóc.
Quan, Trương cũng khóc cả.
Viên Thuật biết rằng Lữ Bố đã cướp Từ Châu, sai người đến nói với Bố rằng: Hễ Bố cùng giúp đánh Lưu Bị sẽ đưa cho năm vạn hộc lương, năm trăm ngựa, một vạn lạng vừa vàng vừa bạc, một ngàn tấm vóc nhiễu.
Bố ưng ý lắm, sai ngay Cao Thuận dẫn năm vạn quân đến đánh mé sau Lưu Bị.
Lưu nghe tin ấy, nhân khi mưa dầm, rút quân bỏ Vu Thai chạy, muốn về lấy Quảng Lăng.
Khi Cao Thuận đến nơi, Lưu Bị đã đi rồi.
Thuận vào ra mắt Kỷ Linh, đòi những đồ Viên Thuật đã hứa cho.
Linh nói:
- Ông cứ về. Ðể tôi vào nói với chúa tôi.
Thuận từ giã Kỷ Linh, về thuật lại với Lữ Bố.
Bố còn đang hồ nghi, chợt có thư Viên Thuật đưa đến, trong thư nói rằng:
"Cao Thuận tuy có đến giúp, nhưng Lưu Bị chưa trừ được. Ðợi khi nào bắt được Lưu Bị, bấy giờ tôi sẽ đưa các đồ đã hứa đến cho ngài. "
Bố giận lắm, cho Viên Thuật là đồ thất tín, muốn kéo quân sang đánh, Trần Cung can rằng:
- Không nên! Viên Thuật giữ Thọ Xuân, binh nhiều lương rộng. Chớ nên khinh địch. Không bằng mời Lưu Bị lại đóng ở Tiểu Bái để làm vây cánh cho ta. Về sau sai Lưu Bị làm tiên phong, trước đánh Viên Thuật sau đánh Viên Thiệu rồi có thể tung hoành thiên hạ được.
Bố nghe lời, sai người đem thư đi mời Lưu Bị.
Bấy giờ Lưu Bị đã kéo quân về Ðông lấy đất Quảng Lăng, bị Viên Thuật vào cướp trại, quân lính hao hụt quá nửa, gặp sứ của Lữ Bố đến, đưa thư mời về Tiểu Bái.
Lưu Bị mừng lắm. Quan, Trương nói:
- Lữ Bố là đứa bội vông ơn nghĩa, không nên tin.
Lưu Bị nói:
- Hắn lấy bụng tử tế đãi ta, việc gì phải nghi?
Ba anh em lại kéo quân về Từ Châu.
Lữ Bố sợ Lưu Bị còn nghi hoặc, trước hết sai người đưa trả lại gia quyến. Cam phu nhân và My phu nhân về gặp Lưu Bị kể hết sự tình, nói rằng Lữ Bố sai người giữ cửa nhà, không cho ai được vào, lại thường sai thị thiếp đưa đồ ăn, thức dùng đến, không bao giờ phải thiếu thốn.
Lưu Bị mới bảo Quan, Trương rằng:
- Ta đã biết Lữ Bố tất không hại gia quyến ta!
Lưu Bị vào thành để tạ Lữ Bố. Trương Phi không chịu theo vào, đem hai chị về Tiểu Bái trước.
Lưu Bị vào ra mắt lạy tạ Lữ Bố.
Bố nói:
- Tôi không phải muốn cướp thành. Bởi vì Trương Phi ở đây, hay say rượu giết người, tôi e xẩy ra chuyện bất trắc, nên tôi lại giữ hộ đấy thôi!
Lưu Bị nói:
- Tôi vẫn muốn nhường anh đã lâu.
Bố giả dạng nhường lại cho Lưu Bị. Lưu nhất quyết không chịu, về đóng ở Tiểu Bái.
Quan, Trương trong bụng không bằng lòng.
Lưu Bị nói:
- Nhún mình yên phận, để đợi thời, không thể cưỡng lại số mệnh được!
Lữ Bố thường thường sai người đưa lương ăn và vải lụa đến. Từ bấy giờ hai bên lại hòa thuận với nhau.
Trong khi ấy thì Viên Thuật ở Thọ Xuân mở tiệc yến to, hội tướng sĩ lại ăn uống.
Chợt có người báo rằng:
- Tôn Sách đi đánh Thái Thú Lư Giang là Lục Khang, thắng lợi trở về.
Thuật gọi Sách đến, Sách lạy ở dưới thềm.
Thuật hỏi han chuyện trò xong rồi cho Sách ngồi dự tiệc.
Nguyên Tôn Sách từ khi cha mất, về ở Giang Nam kính người hiền, tôn kẻ sĩ, sau nhân Ðào Khiêm cùng với cậu Sách, là Thái Thú Ðan Dương tên là Ngô Cảnh không hòa với nhau, Sách mới đem mẹ và gia thuộc về Khúc A, mình thì sang ở với Viên Thuật.
Thuật yêu Sách lắm, thường vẫn than rằng:
- Giá ta có được đứa con như Tôn Lang, chết cũng không ân hận gì nữa.
Thuật cho Sách làm Hoài Nghĩa Hiệu Úy, sai đem binh sang đánh Tổ Lang ở Kinh Huyện.
Sách đánh được.
Thuật thấy Sách giỏi, lại sai sang đánh Lục Khang, cũng đánh được. Bấy giờ trở về.
Sách vào ăn tiệc.
Khi tiệc đã tan, Sách về trại, nghĩ trong tiệc Thuật đãi mình khí ngạo bỉ một chút, trong bụng buồn bực, bèn lẩn đi bách bộ dưới bóng trăng ngoài sân. Nhớ đến sự ngày xưa, cha là Tôn Kiên thì anh hùng như thế mà mình thì lưu lạc thế này, bất giác hu hu cất tiếng khóc.
Chợt có người ở ngoài đến cười to lên hỏi rằng:
- Bá Phù sao thế? Khi Tôn công còn, việc gì cũng dùng đến ta, nay người có việc gì không quyết, sao chẳng hỏi ta mà lại khóc thế?
Sách trông xem ai, thì là Chu Trị, tên chữ là Quân Lý, người ở Ðan Dương; nguyên là tùng sự của Tôn Kiên ngày xưa.
Sách gạt nước mắt mời ngồi nói rằng:
- Tôi khóc là vì tôi giận tôi không nối được chí cha tôi ngày xưa.
Trị nói:
- Sao không nói với Viên Công Lộ, mượn binh kéo sang Giang Ðông, mượn tiếng là đi cứu Ngô Cảnh, nhưng sự thực là để mưu đồ nghiệp lớn, sao lại cứ chịu mãi ở dưới người ta?
Hai người đang bàn nhau, chợt lại có một người nữa ở đâu chạy vào nói rằng:
- Các ông bàn nhau việc gì tôi đã biết rồi, nay tôi có trăm quân tinh tráng, xin giúp Bá Phù một tay.
Sách nhìn xem ai thì là mưu sĩ của Viên Thuật tên là Lã Phạm, tên chữ là Tử Hoành, người ở Nhữ Dương.
Sách mừng lắm, mời cùng ngồi nói chuyện.
Lã Phạm nói:
- Tôi chỉ lo Viên Thuật không ượn quân.
Sách nói:
- Tôi có một vật báu để làm tin. Vật ấy là truyền quốc ngọc tỉ của cha tôi để lại cho.
Phạm nói:
- Công Lộ thèm được ngọc đó đã lâu.
Hôm sau Sách vào ra mắt Viên Thuật, khóc nói rằng:
- Thù cha tôi chưa báo được, ngày nay cậu tôi là Ngô Cảnh lại bị thứ sử Dương Châu là Lưu Do bức bách. Mẹ già và vợ con ở cả Khúc A, e rằng sẽ bị hại. Vậy tôi xin mượn tướng quân vài ngàn hùng binh để sang sông cứu nạn, và để thăm nhà. Sợ minh công không tin, tôi xin đem ngọc tỉ của cha tôi để lại, để làm tin.
Thuật thấy ngọc tỉ vồ ngay lấy xem, mừng lắm nói rằng:
- Ta không phải cầu chi ngọc tỉ của ngươi, nhưng hãy tạm để đây, ta cho mượn ba ngàn binh, năm trăm ngựa, khi nào bình định rồi phải về ngay. Vả ngươi nay chức nhỏ ngôi thấp, khó giữ được quyền lớn, ta cất cho ngươi lên làm Triết Sung Hiệu Úy, Điển Khấu Tướng Quân.
Ngay ngày hôm đó cho lãnh quân đi.
Sách lạy tạ rồi dẫn quân mã, đem cả Chu Trị, Lã Phạm và tướng cũ của cha là Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương, chọn ngày khởi binh.
Ði đến Lịch Dương, gặp một toán quân, có một người đi trước, dáng điệu phong lưu, nghi dung đẹp đẽ, trông thấy Tôn Sách, nhảy xuống ngựa vái một vái.
Sách nhìn xem ai, thì là Châu Du, tự là Công Cẩn, người ở Thư Thành, quận Lư Giang.
Vốn khi Tôn Kiên đánh Ðổng Trác, Du đem gia quyến về ở Thư Thành. Du với Sách hai người cùng một tuổi, chơi với nhau rất thân, kết làm anh em.
Sách hơn Du có vài tháng. Du thờ làm anh.
Chú Châu Du là Châu Thượng, làm thái thú ở Ðan Dương.
Bữa ấy Du sang thăm chú, đi đến đó gặp Tôn Sách.
Sách mừng lắm, đem sự tình kể với Du. Du nói:
- Tôi xin hết sức khuyển mã, để cùng huynh mưu toan nghiệp lớn.
Sách nói:
- Ta nay được Du, việc lớn tất phải xong.
Rồi bảo Chu Trị, Lã Phạm cùng đến gặp Châu Du.
Du bảo Sách rằng:
- Huynh nay muốn làm việc to, có biết Giang Ðông có hai họ Trương không?
Sách hỏi:
- Ai vậy?
Du nói:
- Một người ở Bành Thành, tên là Trương Chiêu, tự là Tử Bố. Một người ở Quảng Lăng, tên là Trương Hoành, tự là Tử Cương. Hai người ấy đều có tài ngang trời dọc đất, nhân tránh loạn đến ở đấy, sao huynh không đón mời hai ngừơi ấy.
Sách sai người đem đồ lễ đến mời Trương Chiêu, Trương Hoành. Hai người từ chối, không đến. Sách phải thân đến tận nơi, cùng hai người nói chuyện. Sách rất lấy làm bằng lòng, cố mời đi mời lại mãi, hai người mới chịu nhận lời.
Sách cho Trương Chiêu làm Trưởng Sử, kiêm chức Phủ Quân Trung Lang Tướng; Trương Hoành làm tham mưu, Chánh Nghị Hiệu Úy.
Cùng nhau bàn mưu sang đánh Lưu Do.
Lưu Do, tự là Chính Lẽ, người ở Mâu Bình quận Ðộng Lai, cũng là Tôn thân nhà Hán, cháu quan Thái Úy Lưu Sủng, em quan thứ sử Duyện Châu Lưu Ðại.
Trước làm Thứ Sử Dương Châu, đóng ở Thọ Xuân, sau bị Viên Thuật đuổi sang Giang Ðông, cho nên đến Khúc An ở.
Bấy giờ Lưu Do nghe thấy quân Tôn Sách đến, vội vàng họp các tướng để bàn.
Bộ tướng là Trương Anh nói:
- Tôi xin lĩnh một cánh quân, đóng đồn Ngưu Chử, quân giặc dẫu có trăm vạn cũng không dám đến gần.
Nói chưa dứt lời, dưới trướng lại có một người kêu to lên rằng:
- Tôi xin làm bộ tiên phong!
Các tướng nhìn xem ai, thì là Thái Sử Từ, người ở Ðông Lai.
Từ, tự khi giải được vây Bắc Hải cho Khổng Dung, sang với Lưu Do.
Do giữ lại ở dưới trướng.
Do bảo:
- Ngươi còn it tuổi, chưa nên làm đại tướng, hãy nên ở tả hữu ta để nghe mệnh lệnh.
Từ không bằng lòng lùi ra.
Trương An lĩnh quân đến Ngưu Chử, chứa mười vạn hộc lương ở lầu các.
Tôn Sách dẫn quân đến. Trương Anh ra địch.
Hai bên hội quân ở trên bãi sông Ngưu Chử.
Trương Anh ra ngựa chửi mắng, Hoàng Cái ra đánh nhau với Trương Anh, chưa được vài hiệp, bỗng thấy trong quân Trương Anh bối rối, rồi thấy nói: "Trong trại có người phóng hỏa! "
Anh vội rút quân về.
Tôn Sách thừa thế đánh dồn.
Trương Anh thế cùng phải bỏ Ngưu Chử chạy trốn vào trong núi sâu.
Người phóng hỏa ở trong trại nguyên là hai viên kiện tướng.
Một là Tưởng Khâm tự là Công Ðịch, người ở Thọ Xuân xứ Cửu Giang, một là Chu Thái, tự là Âu Bình, người ở Hạ Sái xứ Cửu Giang.
Hai người gặp phải thời loạn, tụ quân trong sông Dương Tử, cướp bóc kiếm ăn; vốn nghe tiếng Tôn Sách là người hào kiệt ở Giang Ðông, hay cầu người hiền, mời kẻ sĩ, cho nên dẫn đồ đảng hơn ba trăm người đến theo.
Sách mừng lắm, dùng làm trường tiền hiệu úy, thu được hơn bốn ngàn quân hàng, liền tiến binh lên đóng ở Trần Ðình.
Trương Anh thua trở về, vào ra mắt Lưu Do.
Do giận muốn đem chém, lại có các mưu sĩ là Trích Dung và Tiết Lễ can mãi mới tha, sai Trương Anh đem quân đóng ở thành Linh Lăng để chống giặc.
Do tự lĩnh quân ra mé nam núi Thần Ðình cắm trại.
Tôn Sách đóng ở phía Bắc núi ấy.
Hôm sau Sách gọi người ở đó hỏi rằng:
- Gần đây có miếu nào thờ vua Hán Quang Vũ chăng?
Người ấy thưa:
- Có miếu ở trên đỉnh núi.
Sách nói:
- Ðêm ta chiêm bao thấy vua Quang Vũ gọi ta vào tương kiến. Ta định lên miếu ấy cầu.
Trưởng sử là Trương Chiêu can rằng:
- Không nên đi! Mé nam núi này có trại Lưu Do. Ngộ hắn có phục binh thì làm thế nào?
Sách nói:
- Ta đã có thần thánh phù hộ, việc chi còn phải sợ?
Nói xong liền mặc áo giáp, cầm giáo, lên ngựa, rồi đem bọn Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Ðương, Tưởng Khâm và Chu Thái cả thảy 13 người cùng cưỡi ngựa lên núi.
Ðến miếu, xuống ngựa, vào thắp hương lễ bái, Sách quỳ xuống khấn rằng:
- Tôi là Tôn Sách. Xin nguyện rằng nếu lập được nghiệp lớn ở đất Giang Ðông, khôi phục lại được cơ đồ của cha tôi ngày xưa, tôi xin sửa sang đình miếu bốn mùa lễ bái.
Sách khấn vái xong đi ra miếu, lên ngựa ngoảnh lại bảo các tướng:
- Ta muốn qua bên kia núi, dòm xem dinh trại Lưu Do đóng ra làm sao?
Các tướng ai cũng ngăn:
- Không nên!
Sách không nghe, cứ việc đi.
Các tướng cũng phải đi theo.
Ðến phía Nam núi, đứng trên trông xuống rừng rú và trại Lưu Do đóng. Có quân canh đường, chạy về báo với Lưu Do.
Do nói:
- Ðây là mẹo Tôn Sách đến dử mình đây, không nên ra đánh.
Thái Sử Từ nhảy lên nói rằng:
- Lúc này không bắt Tôn Sách thì còn đợi đến lúc nào?
Nói xong không đợi lệnh Lưu Do, tự mặc ngay áo giáp, lên ngựa cầm giáo ra ngoài trại, hô lên:
- Ai có gan thì theo ta!
Các tướng không ai nhúc nhích. Chỉ có một tiểu tướng bước ra nói:
- Thái Sử Từ thế mới gọi là tướng giỏi. Ta nên đi giúp một tay.
Nói rồi lên ngựa đi theo Thái Sử Từ. Các tướng đều tủm tỉm cười.
Tôn Sách ngắm độ nửa giờ mới quay ngựa trở về. Vừa đi qua được đỉnh núi nghe thấy đằng sau có người thét:
- Tôn Sách đừng chạy nữa!
Sách ngoảnh lại thấy hai tướng cưỡi ngựa đến, Sách gạt 12 tướng ra, một mình cầm ngang ngọn giáo, cưỡi ngựa đứng đợi ở dưới núi.
Thái Sử Từ hỏi to:
- Người nào là Tôn Sách?
Sách hỏi:
- Ngươi là đứa nào?
Từ đáp:
- Ta là Thái Sử Từ ở Ðông Lai, ta lại đây chỉ cốt để bắt Tôn Sách.
Sách cười nói:
- Ðây! Tôn Sách đây! Cho cả hai đứa chúng bay lại đánh một mình ta, ta không sợ. Nếu ta sợ, sao gọi là Tôn Bá Phù?
Từ nói:
- Tất cả các ngươi đều đến, ta cũng không sợ.
Nói xong thúc ngựa múa kích vào đánh Tôn Sách. Sách vác giáo lại địch. Hai ngựa giao nhau, đánh được hơn năm mươi hiệp, được thua chưa phân, lũ Trình Phổ đứng ngoài khen thầm rằng giỏi.
Từ thấy Sách đánh giáo không hở miếng nào. Giả cách thua chạy để dử cho Tôn Sách đuổi ra xa.
Từ không đi đường cũ lên núi, lại rẽ về sau núi mà chạy.
Sách vừa đuổi vừa thét to:
- Chạy không phải là hảo hán!
Từ trong bụng nghĩ thầm:
- Hắn có 12 người đi theo, ta chỉ trọi một mình. Ví dù bắt được hắn, cũng bị chúng cướp mất. Phải dử cho hắn đi một đường nữa, để cho chúng không biết đường nào mà tìm, bấy giờ ta sẽ ra tay.
Bởi thế vừa đánh vừa lùi. Sách cũng cứ đuổi, đuổi nhau mãi đến chỗ bằng phẳng, bấy giờ Từ mới quay lại đánh.
Ðánh nhau được 50 hiệp nữa.
Sách phóng ngọn giáo lại.
Từ tránh ngay được, lại trở tay bắt được giáo. Từ lại phóng giáo lại,
Sách cũng tránh được và giơ tay bắt lấy giáo, rồi nắm chặt lấy. Từ chạy lại giằng kích về, hai người kéo co nhau rồi cùng nhảy cả xuống ngựa. Ðể ngựa chạy đi đâu không biết nữa.
Lôi kéo nhau chán rồi, hai người cùng buông cả giáo ra, túm lấy nhau mà đánh.
Hai bên, bên nào áo chiến cũng rách tan nát.
Sách nhanh tay vạ được cái kích ngắn gài ở lưng Từ; Từ giật ngay được mũ đầu mâu của Sách.
Sách cầm kích đâm Từ; Từ lấy mũ che đỡ.
Giữa lúc ấy có tiếng reo ầm ầm kéo đến, quân tiếp ứng của Lưu Do, ước hơn ngàn người.
Sách đã lấy làm nguy, may đâu bọn Trình Phổ, 12 tướng cưỡi ngựa cũng vừa tìm được đến.
Hai người bấy giờ mới buông nhau ra.
Từ lên một con ngựa khác, lại cầm lấy giáo trở về.
Ngựa của Tôn Sách, Trình Phổ bắt được, Sách cũng nhặt lấy kích rồi lên ngựa.
Một ngàn quân Lưu Do cùng 12 tướng Tôn Sách hai bên đánh nhau. Ðánh lần quanh mãi đến tận dưới núi Thần Ðinh.
Bấy giờ lại thấy tiếng reo, Châu Du kéo quân đến, Lưu Do lại dẫn đại quân xuống núi.
Khi ấy trời đã vàng vàng tối, tự dưng nổi cơn mưa gió, hai bên cùng thu quân về.
Hôm sau, Tôn Sách dẫn quân đến trước trại Lưu Do, Do cũng đem quân ra đón.
Khi hai bên bầy trận, Tôn Sách lấy cái kích nhỏ rút được của Từ hôm trước, đem buộc ở đầu giáo, cầm ra giễu ở trước trận, rồi sai quân hô to lên rằng:
- Giá Thái Sử Từ không chạy mau chân thì đã bị kích này đâm chết.
Từ cũng đem mũ đầu mâu của Sách ra trước trận sai quân hô lên rằng:
- Ðầu Tôn Sách đã ở đây rồi!
Hai bên nhạo bán lẫn nhau, reo ầm cả lên. Bên cậy khỏe, bên khoe tài.
Thái Sử Từ phóng ngựa ra định cùng Tôn Sách quyết phân thắng bại.
Sách sắp sửa ra, Trình Phổ nói:
- Chúa công lo là phải khó nhọc. Tôi xin ra bắt hắn.
Trình Phổ ra trận.
Từ nói:
- Ngươi không đánh địch với ta. Về gọi Tôn Sách ra đây!
Trình Phổ tức lắm, vác giáo xông vào đánh Từ. Hai ngựa giao đấu được hơn 30 hiệp, bỗng thấy Lưu Do khua chiên thu quân.
Từ hỏi Lưu Do:
- Tôi đã sắp bắt được tướng giặc sao lại thu quân về?
Do nói:
- Có người báo rằng: Châu Du đã đem quân đánh úp lấy Khúc A, vì có người ở Lư Giang, tên là Trần Vũ tiếp ứng cho hắn vào thành. Cơ nghiệp nhà ta đã mất, không nên ở mãi đây; phải kíp sang Mạt Lăng, hội cả quân mã của Tiết Lễ, Trích Dung lại để tiếp ứng.
Thái Sử Từ theo Lưu Do lui quân.
Tôn Sách không đuổi cũng thu quân về.
Trưởng sử Trương Chiêu nói:
- Bên hắn bị Châu Du lừa lấy Khúc A, không dám ham đánh, đêm nay ta nhân thế nên đến cướp trại.
Sách ưng ý, đang đêm chia quân làm năm đường, kéo đến lấy trại Lưu Do. Quân Do thua to, chạy tán loạn cả.
Thái Sử Từ một mình không chống nổi, dẫn hơn mười quân kỵ mã ngay đêm hôm ấy chạy sang Kinh Huyện.
Tôn Sách lại vừa được thêm một tay phụ tá nữa là Trần Vũ tự là Tử Liệt.
Vũ mình cao bảy thước, mắt vàng, con ngươi đỏ, hình dung cổ quái. Sách yêu lắm cho làm hiệu úy, sai đi tiên phong đánh Tiết Lễ. Vũ dẫn hơn mười kỵ mã, xông vào trong trận chém hơn năm mươi đầu giặc.
Tiết Lễ thấy vậy đóng chặt cửa thành không dám ra nữa.
Sách đang đánh phá thành, có người báo rằng:
- Lưu Do hội với Trích Dung sang lấy Ngưu Chử.
Sách giận lắm, tự để đại quân kéo về Ngưu Chử. Lưu Do, Trích Dung hai người cùng cưỡi ngựa ra đón đánh.
Tôn Sách nói:
- Ta nay đã đến đây, sao các ngươi không hàng ngay đi?
- Sau Lưu Do bỗng có một người vác giáo cưỡi ngựa ra, đó là bộ tướng tên là Vu Mi, cùng Sách đánh nhau, chưa được ba hiệp, bị Sách bắt sống rồi quay ngựa trở về trận.
Tướng Lưu Do là Phàn Năng, thấy Vu Mi bị bắt liền vác giáo đuổi theo, ngọn giáo đâm gần chạm đến lưng Tôn Sách, quân Sách thấy vậy mới kêu to lên rằng:
- Sau lưng có người đâm trộm!
Sách quay đầu lại, thấy Phàn Năng đã đến gần, quát to một tiếng, như tiếng sét.
Phàn Năng khiếp đảm, ngã quay xuống vỡ đầu ra chết.
Sách về đến cửa cờ, đem Vu Mi bỏ xuống đất, thì ra Vu Mi bị cắp ở nách đã chết kẹp từ bao giờ.
Cùng một lúc, cắp chết một tướng, quát chết một tướng, từ đấy ai cũng gọi Tôn Sách là Tiểu Bá Vương. (Hạng Võ ngày xưa là Bá Vương)
Lưu Do thua to. Quân sĩ hàng Sách quá nửa. Sách lại chém được hơn một vạn thủ cấp.
Do và Trích Dung chạy sang Dự Chương, đi theo Lưu Biểu.
Tôn Sách đem quân về lại đánh Mạt Lăng. Ðến cạnh bờ hào, Sách đứng chiêu dụ Tiết Lễ hàng, chợt có một mũi tên ở trên thành bắn xuống trúng ngay vào đùi trái Tôn Sách.
Tôn Sách ngã ngựa.
Các tướng vội vàng đến cứu, đỡ Sách dậy đem về trại nhổ tên ra, lấy thuốc dấu dịt vào.
Sách nhân thể cho quân đi nói phao lên rằng bị tên bắn chết. Cả cánh quân làm lễ cử ai, nhổ trại kéo về.
Tiết Lễ tưởng Tôn Sách chết thật, đêm hôm ấy liền khởi cả quân trong thành cùng với kiêu tướng là Trương Anh, Trần Hoành, kéo ra thành đuổi đánh.
Bỗng đâu quân phục bốn mặt trổ ra, Tôn Sách đứng đầu đi trước gọi to lên rằng:
- Tôn Lang ở đây mà!
Quân giặc trông thấy mất vía vứt cả gươm giáo, phục xuống đất lạy, Sách truyền lệnh không được giết một người nào.
Trương Anh quay ngựa chạy về bị Trần Vũ đâm chết.
Trần Hoành bị Tưởng Khâm bắn chết; Tiết Lễ chết ở trong đám loạn quân.
Sách vào Mạt Lăng, phủ dụ cho dân yên nghiệp rồi đem quân sang Kinh Huyện để bắt Thái Sử Từ.
Thái Sử Từ chiêu được hai ngàn quân tinh tráng và quân cũ của mình, toan đi báo thù cho Lưu Do.
Tôn Sách với Châu Du bàn nhau kế bắt sống Thái Sử Từ.
Châu Du ra lệnh bao vây ba mặt, để chừa một mặt cửa đông huyện cho Từ chạy.
Cách huyện 25 dặm, phục binh ba nơi, Từ ra khỏi thành chạy được đến đấy, người mệt, ngựa mỏi, tất nhiên bị bắt.
Nguyên những quân của Thái Sử Từ dụ được quá nữa là người ở rừng núi, chưa biết kỷ luật nhà binh. Vả thành Kinh Huyện lại không được cao.
Ðêm hôm ấy Tôn Sách sai Trần Vũ, mặc áo ngắn cầm đao, trèo lên mặt thành trước đốt lửa. Từ thấy trên thành lửa cháy, lên ngựa chạy ra cửa đông.
Tôn Sách đem quân lại đuổi, đuổi đến ba mươi dặm thì thôi.
Từ chạy được năm mươi dặm, người ngựa đều đã mỏi mệt, giữa lúc ấy trong đám cỏ lau bên đường có tiếng reo nổi lên. Từ vội chạy, hai bên đường chằng chịt những dây, ngựa vướng cẳng ngã gục xuống.
Thái Sử Từ bị bắt sống, giải về trại Tôn Sách.
Lúc quân lính sắp giải Từ đến nơi, Sách biết trước ra tận cửa dinh, quát đuổi quân lính, tự ra cởi trói, rồi đem áo cẩm bào mặc cho Từ, mời vào trong trại nói rằng:
- Ta biết Tử Nghĩa là một đấng trượng phu. Bởi Lưu Do ngu xuẩn, không biết dùng Tử Nghĩa làm đại tướng cho nên đến nỗi có trận thua này.
Từ thấy Sách đối đãi mình tử tế, xin xuống hàng, Sách cầm lấy tay Từ cười nói rằng:
- Khi đánh nhau ở Thần Ðình, giá thử ông bắt được tôi, thì có hại nhau không?
Từ cũng cười đáp rằng:
- Cũng chưa biết chừng!
Sách cười ầm lên, mời vào trướng, mời lên ngồi trên, sai mở tiệc yến khoản đãi.
Từ đứng dậy nói rằng:
- Lưu quân mới thua, lòng quân tan rã tôi xin về để thu nhặt tàn quân, để giúp minh công. Không biết minh công có tin không?
Sách đứng dậy tạ mà nói rằng:
- Bụng tôi vẫn ước như thế. Nay xin hẹn với ông, trưa mai tôi xin đợi ông trở lại.
Từ vâng lời rồi đi.
Các tướng ngạc nhiên nói rằng:
- Thái Sử Từ đi chuyến này tất không trở lại đâu!
Sách nói:
- Từ là người tín nghĩa không trái ước với ta.
Các tướng chẳng ai tin. Hôm sau cắm một cây nêu để đo bóng mặt trời ở trước cửa trại, rồi các tướng cùng xúm cả chung quanh đễ đợi giờ ngọ. Cây nêu vừa đứng bóng, thấy Thái Sử Từ dẫn hơn một ngàn quân đến.
Các tướng đều chịu Tôn Sách là biết người.
Tôn Sách tụ được vài vạn quân, bình trị được Giang Ðông, vỗ yên dân chúng, người kéo về theo vô số.
Dân Giang Ðông ai cũng gọi Sách là Tôn Lang.
Nghe tin quân Tôn Sách đến, dân chúng đều sợ hãi bỏ chạy cả, nhưng khi Sách đến nơi, không cho phép người nào cướp bóc của dân, cho đến gà chó cũng không kinh động.
Nhân dân thấy thế ai cũng mừng, đem trâu rượu đến trại để mừng.
Sách lại đem vàng, đem lụa ra thưởng lại.
Tiếng vui mừng, hân hoan vang khắp đồng nội.
Phàm những quân cũ của Lưu Do, ai muốn theo thì cho theo, ai không muốn theo thì cấp thưởng cho về làm ruộng.
Dân Giang Nam ai cũng khen Tôn Sách là người nhân đức. Bởi vậy quân thế mỗi ngày một thịnh.
Bấy giờ Sách mới rước mẹ, cậu và các em cùng về Khúc A; sai em là Tôn Quyền cùng với Chu Thái giữ Tuyên Thành, Sách thì lĩnh binh sang Nam để lấy Ngô Quận.
Bấy giờ Nghiêm Bạch Hổ tự xưng là Ðông Ngô Ðức Vương, giữ ở Ngô Quận.
Bạch Hổ sai bộ tướng giữ Ô Trình và Gia Hưng.
Bấy giờ nghe tin quân Tôn Sách đến, Bạch Hổ sai em là Nghiêm Dư đem quân ra.
Hai bên gặp nhau ở Phong Kiều.
Dư vác đao cưỡi ngựa đứng trên cầu.
Sách muốn ra đánh, Trương Hoành can rằng:
- Chủ tướng là vận mệnh của ba quân, ai cũng trông cậy cả vào, không nên khinh thường quân tiểu khấu. Xin tướng quân tự cẩn thận.
Sách tạ nói rằng:
- Lời tiên sinh nói như vàng đá. Nhưng nếu tôi không chịu xông vào mũi tên hòn đạn thì tướng sĩ ai chịu dùng sức!
Bèn sai Hàn Ðương cưỡi ngựa ra.
Khi Hàn Ðương đi lên đến cầu, đã thấy Tưởng Khâm, Trần Vũ bơi thuyền nhỏ theo bờ sông, lượn sang được bên kia cầu, bắn tên tua tủa lên quân đứng trên bờ, hai người nhảy lên đánh giết, quân Nghiêm Dư phải lui chạy.
Hàn Ðương kéo quân thẳng đến cửa thành.
Giặc chạy cả vào trong thành.
Sách chia quân, đường thủy đường lục cùng tiến, vây bọc cả lấy Ngô Thành.
Vây luôn ba ngày không ai dám ra đánh.
Sách dẫn quân đến dưới cửa thành để chiêu dụ.
Trên thành một viên tỳ tướng, tay trái cầm chắc thanh ván đỡ lên, tay phải trỏ xuống chửi mắng.
Thái Sử Từ ngồi trên ngựa giương cung đặt tên xong rồi ngoảnh lại bảo chư tướng rằng:
- Xem ta bắn trúng vào tay trái tên kia nhé!
Nói chưa dứt lời, dây cung tách một tiếng, quả nhiên trúng giữa bàn tay trái tên tướng trên thành, lại xuyên qua tay cắm chắc vào tấm ván.
Người trên thành dưới thành ai cũng reo ồ lên.
Họ vội vàng cứu tướng ấy đem xuống thành.
Bạch Hổ trông thấy thất kinh nói rằng:
- Quân hắn có người tài như thế, ta địch sao được?
Bàn nhau muốn cùng hòa.
Hôm sau Bạch Hổ sai Nghiêm Dư ra thành, vào ra mắt Tôn Sách.
Sách mời Dư vào trướng uống rượu. Rượu đã say, Sách hỏi Dư:
- Ý lệnh huynh muốn thế nào?
Dư nói:
- Muốn cùng với tướng quân chia đôi Giang Ðông.
Sách nổi giận mắng rằng:
- Ðàn chuột nhắt lại đòi ngang hàng với ta à!
Mắng rồi thét đem Nghiêm Dư ra chém.
Dư rút kiếm đứng dậy.
Sách phóng kiếm trúng người Nghiêm Dư gục xuống, cắt ngay lấy đầu, sai người đưa vào thành.
Bạch Hổ biết chừng không địch nổi, bỏ thành chạy. Sách kéo quân đuổi theo.
Hoàng Cái đánh lấy được Gia Hưng, Thái Sử Từ đánh lấy được Ô Trình, mấy châu đều bình định cả.
Bạch Hổ chạy về Dư Hàng, cướp bóc ở dọc đường, lại bị thổ dân ở đấy tên là Lăng Tháo đem người làng ra đánh, Bạch Hổ phải thu quân về Cối Kê.
Hai cha con Lăng Tháo lại đi đón Tôn Sách. Sách cho làm tòng chinh hiệu úy, cũng dẫn quân sang qua sông.
Bạch Hổ tụ quân, dàn khắp ở bến sông phía Tây.
Trình Phổ đánh một trận lại thắng đuổi mãi đến thành Cối Kê.
Thái thú Cối Kê tên là Vương Lãng, muốn đem quân ra cứu Bạch Hổ, có người can rằng:
- Không nên cứu, Tôn Sách dùng quân nhân nghĩa; Bạch Hổ là một tướng bạo ngược. Nên bắt Bạch Hổ đem dâng Tôn Sách.
Lãng nhìn xem ai bàn kế ấy; thì là Ngu Phiên, tự là Trọng Tường, người ở Cối Kê, hiện đương làm quận lại.
Lãng giận mắng Phiên. Phiên thở dài trở ra.
Lãng đem binh hội vại Bạch Hổ, dàn quân ở cánh đồng Sơn Âm; hai bên đối trận.
Tôn Sách cưỡi ngựa ra bảo Vương Lãng rằng:
- Ta cất quân nhân nghĩa đi dẹp Triết Giang, sao ngươi dám vào hùa với giặc?
Lãng mắng rằng:
- Bụng ngươi tham không có chừng, đã được Ngô Quận rồi còn muốn chiếm nốt bờ cõi ta. Nay ta quyết báo thù cho họ Nghiêm!
Tôn Sách giận lắm, sắp ra đánh nhau thì Thái Sử Từ ra lúc nào rồi.
Vương Lãng múa đao tế ngựa, đánh nhau với Từ chưa được vài hiệp, tướng Lãng là Chu Hán nhảy ra đánh đỡ.
Bên này Hoàng Cái cũng tế ngựa ra tiếp ứng, đánh với Chu Hân.
Hai bên đánh trống vang lừng, đánh nhau quyết liệt.
Tự nhiên thấy đằng sau trận Vương Lãng bối rối.
Một toán quân đâu từ sau lưng đánh lại.
Lãng thất kinh kíp quay ngựa trở lại đón đánh.
Quân đánh tập hậu ấy là Châu Du và Trình Phổ, trong khi hai bên đánh nhau, đi tắt lẻn mặt sau.
Ðằng trước đằng sau đánh dập lại.
Quân Lãng ít không chống xuể, cùng với Bạch Hổ, Chu Hân, cố đánh để mở lấy một đường máu chạy vào thành, cất cầu lên, đóng vững cửa thành lại.
Ðại quân Tôn Sách thừa thế, xấn đến mãi dưới thành, chia quân ra bốn cửa.
Vương Lãng ở trong thành thấy Sách đánh kíp lắm, lại muống kéo quân ra quyết đánh một trận sống chết cũng đành. Bạch Hổ can rằng:
- Thế quân Tôn Sách to lắm, túc hạ chỉ nên thành cao hào sâu giữ cho vững. Không đầy một tháng, quân kia hết lương tất phải chạy. Bấy giờ ta thừa thế ra đuổi, có thể chẳng phải đánh cũng phá tan được.
Lãng nghe kế ấy, giữ vững thành không ra.
Tôn Sách đánh luôn mấy hôm không phá được thành, bèn cùng chư tướng bàn mưu kế.
Tôn Tĩnh nói:
- Vương Lãng cậy hiểm giữ thành, khó phá ngay được. Tiền lương đất Cối Kê quá nửa chứa ở Tra Ðộc. - đây cách đấy chỉ vài mươi dặm, không bằng ta hãy đem binh giữ lấy Tra Ðộc trước. Trong binh pháp có nói rằng: đánh chỗ không phòng bị, ra nơi không ngờ, là thế đó.
Sách mừng nói:
- Mẹo hay của chú đủ phá được giặc.
Liền hạ lệnh sai các cửa thành đốt lửa giả, cắm cờ hiệu để làm nghi binh, rồi đêm hôm ấy bỏ bao vây, kéo quân sang mặt nam.
Châu Du hiến một kế rằng:
- Chúa công kéo cả quân, Vương Lãng tất ra thành đuổi theo. Nếu hắn ra ta nên dụng kỳ binh mà đánh.
Sách nói:
- Ta đã sắp sẵn cả rồi. Lấy thành chỉ nội đêm nay.
Bèn hạ lệnh cho quân mã đi.
Vương Lãng nghe tin báo Tôn Sách rút quân mã đi, liền dẫn quân lên chòi canh trông xem, thấy dưới thành khói lửa vẫn ngùn ngụt, tinh kỳ đâu vẫn đấy, trong bụng còn nghi hoặc, Chu Hân nói:
- Tôn Sách chạy rồi, bày ra mẹo này để đánh lừa ta đấy thôi, nên đem quân ra đuổi đánh.
Nghiêm Bạch Hổ nói:
- Tôn Sách chuyến này đi, chắc là đến Tra Ðộc. Tôi xin đem bộ binh cùng Chu tướng quân đuổi theo.
Lãng nói:
- Tra Ðộc là chỗ ta chứa lương, cần phải đề phòng cẩn thận. Ngươi đi trước, ta theo sau để tiếp ứng.
Bạch Hổ cùng Chu Hân dẫn năm ngàn quân ra thành đuổi theo.
Bây giờ mới canh một. Ði khỏi thành được hơn hai mươi dặm, bỗng đâu trong rừng rậm, có một tiếng trống nổi, rồi lửa đuốc sáng rực cả lên. Bạch Hổ thất kinh, liền quay ngựa trở lại, thì có một tướng chắn ngang đường.
Chính là Tôn Sách.
Chu Hân múa đao lại đánh, bị Sách đâm một mũi giáo chết. Quân thấy thế xuống hàng cả.
Bạch Hổ cố chết mở một đường, rồi chạy về Dư Hàng.
Vương Lãng nghe tiền quân đã thua, không dám vào thành, dẫn bộ binh chạy ra góc bể đi trốn.
Tôn Sách thu quân trở lại, thừa thế lấy ngay thành trì, vỗ yên nhân dân.
Ðược mấy hôm có người mang đầu Bạch Hổ đến dâng.
Tôn Sách nhìn người ấy, mình cao tám thước, mặt vuông, mồm rộng; hỏi tên họ là gì, thì người ấy xưng tên là Ðổng Tập, tự là Nguyên Ðõi, người ở Cối Kê.
Sách mừng lắm, cho làm Biệt Bộ Tư Mã.
Từ đó xứ Ðông bình định được cả.
Sách sai chú là Tôn Tĩnh giữ ở đấy; sai Chu Trị làm thái thú Ngô Quận, còn mình thì thu quân về Giang Ðông.
Em Sách là Tôn Quyền cùng với Chu Thái giữ ở Tuyên Thành.
Chợt có giặc núi bốn mặt kéo đến. Bấy giờ đem đã khuya, không kịp chống cự.
Thái ôm Quyền lên ngựa để chạy.
Giặc vác đao xông vào chém.
Thái cởi trần ra, xuống ngựa đi bộ, cầm đao đánh nhau với giặc, một lúc giết luôn được hơn mười đứa.
Sau có một tên giặc, tế ngựa vác giáo nhảy xổ vào để giết Chu Thái.
Thái nắm ngay được giáo, rẩy giặc ngã xuống, cướp được ngựa giặc, đánh riết mở được đường ra, cứu được Tôn Quyền.
Giặc thấy vậy chạy cả.
Thái bị cả thảy mười hai vết thương nặng, sưng lên, gần chết.
Sách nghe tin lo lắm.
Ðổng Tập nói:
- Tôi đã nhiều phen đánh nhau với giặc bể, bị thương may có một người quận lại ở Cối Kê, tên là Ngu Phiên, tiến cử một thầy thuốc, chữa cho chỉ nửa tháng là khỏi.
Sách hỏi:
- Ngu Phiên có phải là Ngu Trọng Tường không?
Tập thưa:
- Phải.
Sách nói:
- Người ấy là hiền sĩ, ta nên dùng.
Liền sai Trương Chiêu, Ðổng Tập đến mời Ngu Phiên.
Phiên đến.
Sách thết đãi cực hậu, cho làm Công Tào.
Nhân nói chuyện thầy thuốc, Phiên nói rằng:
- Người ấy là người ở Tiêu Quận, nước Bái, tên là Hoa Ðà, tự là Nguyên Hóa; thực là thần y bây giờ, tôi xin đưa đến để yết kiến.
Ðược mấy bữa Phiên đem Hoa Ðà đến.
Sách thấy người mặt còn trẻ, mà tóc bạc phơ phơ, tựa như một ông tiên, tiếp đãi làm một thượng khách, rồi mời xem bệnh cho Chu Thái.
Hoa Ðà xem rồi nói:
- Bệnh này chữa thực dễ. Cho thuốc rịt một tháng Chu Thái khỏi hẳn.
Sách mừng lắm, hậu tạ Hoa Ðà rồi tiến binh tiểu trừ giặc núi. Giang Nam bình định cả.
Sách chia cho các tướng giữ các cửa ải, một mặt viết biểu tâu về triều đình, một mặt kết giao với Tào Tháo, một mặt đưa thư cho Viên Thuật để đòi lại ngọc tỉ.
Viên Thuật từ khi nắm được tỉ phù, có ý muốn giữ lấy để xưng hoàng đế, khi tiếp được thư Tôn Sách, liền đưa thư đáp lại tìm cớ thoái thác không trả, rồi kíp Triệu Trưởng Sử là Dương Ðại Tướng; Ðô Ðốc là Trương Huân, Kỷ Linh, Kiều Di; thượng tướng là Lôi Bạc, Trần Lan, cả thẩy hơn ba mươi người, bàn với nhau rằng:
- Tôn Sách mượn quân mã của ta để khởi sự, nay đã lấy hết được đất Giang Ðông, đã quên ơn ta, lại dám đòi lại ngọc tỉ, thực là xấc láo, có phương kế gì trị hắn đi chăng?
Dương Ðại tướng nói:
- Tôn Sách giữ chổ hiểm Trường Giang, binh giỏi, lương nhiều, cũng chưa dễ trị được. Nay ta nên hãy đánh Lưu Bị trước để báo thù xưa vô cớ sang đánh ta. Rồi sau ta hãy sửa Tôn Sách, cũng không muộn. Nay tôi xin dâng một kế làm cho Lưu Bị phải bị bắt lập tức ngay bây giờ.
Thế là:
Chẳng tới Giang Ðông tìm hổ báo;
Lại sang Từ Quận bắt giao long!
Chưa biết kế của Dương Ðại Tướng hiến ra làm sao, xem tới hồi sau sẽ rõ
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 16: Cửa Nha Môn, Phụng Tiên Bắn Kích Sông Vị Thủy, Mạnh Ðức Thua Quân


Dương Ðại-tướng xin dâng một kế để bắt Lưu Bị. Viên Thuật hỏi kế ra làm sao. Ðại-tướng nói:
- Lưu Bị đóng quân ở Tiểu Bái. Tuy rằng dễ lấy nhưng còn Lữ Bố giữ ở Từ Châu. Lần trước ta đã hứa đem vàng, lụa, lương và ngựa cho Lữ Bố, nay vẫn chưa đưa thì có lẽ hắn giúp Lưu Bị. Chúa công nên sai người đưa lương cho hắn, trước nữa mua chuộc lấy lòng hắn, để ta có sang đánh Lưu Bị hắn đừng động binh, họa chăng ta mới bắt được Lưu Bị, rồi sau ta đánh Lữ Bố, đánh Lữ Bố rồi sau lấy Từ Châu.
Thuật nghe lời, liền sai Hàn Dận đem hai mươi vạn hộc thóc và một bức mật thư đưa cho Lữ Bố.
Bố mừng lắm, trọng đãi Hàn Dận, Dận về cáo với Viện Thuật. Thuật sai Kỷ Linh làm đại tướng, Lôi Bạc, Trần Lan làm phó tướng, đem vài vạn quân sang đánh Tiểu Bái.
Lưu Bị nghe tin bàn với chư tướng.
Trương Phi xin ra đánh.
Tôn Càn nói:
- Nay Tiểu Bái binh ít, lương hiếm, nên đưa thư về Từ Châu, cầu cứu Lữ Bố.
Trương Phi nói:
- Lữ Bố nào hắn chịu cứu mình!
Lưu Bị nói:
- Càn nói phải đấy.
Liền đưa thư sang Từ Châu, thư rằng:
Từ khi được nhờ tướng quân nghĩ đến cho tôi nương thân ở đất Tiểu Bái, tôi thực bái phục đức cao của ngài. Nay Viên Thuật muốn báo thù riêng sai Kỷ Linh đem binh đến huyện. Nguy ở sớm tối. Phi tướng quân không ai cứu được.
Xin tướng quân đem quân đến, cứu cho nạn gấp này, thì chúng tôi được hân hạnh lắm.
Lữ Bố xem xong thư, bàn với Trần Cung rằng:
- Mới rồi Viên Thuật đưa lương và gửi thư cho ta để cầu ta đừng cứu Lưu Bị. Nay Lưu Bị lại cầu cứu. Ta nghĩ Lưu Bị đóng ở Tiểu Bái vị tất có bao giờ hại được ta. Chứ Viên Thuật nếu đánh được Lưu Bị, chắn hắn lại kết liên với các tướng ở Thái Sơn để đánh ta, ta sẽ không yên được với hắn. Không bằng đi cứu Lưu Bị.
Nói rồi liền điểm quân đi.
Kỷ Linh cất quân kéo bừa đi, đi đến mé sông Nam huyện Bái, lập doanh trại đóng quân, ban ngày cắm cờ đỏ ối cả trên núi dưới sông; ban đêm đốt lửa sáng choang cả trên trời dưới đất.
Trong huyện Lưu Bị chỉ có hơn năm ngàn người, miễn cưỡng ra ngoài huyện bố trí lập doanh trại. Chợt có người đến báo:
- Lữ Bố dẫn quân đến mé Tây Nam, cách huyện có một dặm, lập trại đóng quân.
Kỷ Linh thấy Lữ Bố đến cứu Lưu Bị, sai ngay người đưa thư trách rằng thất tín.
Lữ Bố xem xong thư cười nói rằng:
- Ta có một kế làm cho Viên, Lưu không bên nào trách được ta.
Nói rồi sai sứ sang mời cả Kỷ Linh và Lưu Bị đến ăn yến.
Lưu Bị thấy Bố mời, muốn đi ngay, Quan, Trương can rằng:
- Anh không nên đi. Lữ Bố có bụng bất lương gì chăng?
Lưu Bị nói:
- Ta đối đãi hắn tử tế, tất hắn không hại ta.
Lưu lên ngựa đi, Quan, Trương cũng đi theo đến trại Lữ Bố. Khi vào chào Bố, Bố nói:
- Nay tôi đến đây để gỡ nạn cho ông. Ngày khác ông đắc chí, đừng quên tôi nhé!
Lưu Bị tạ ơn, Lữ Bố mời ngồi. Quan, Trương cầm kiếm đứng đằng sau, chợt có người báo:
- Kỷ Linh đã đến.
Lưu Bị nghe thấy, giật nẩy mình, muốn lánh mặt đi. Lữ Bố nói:
- Nay ta mời hai ông đến để cùng bàn, không được nghi hoặc gì cả.
Lưu Bị chưa rõ tình ý làm sao, trong bụng nghi nghi hoặc hoặc.
Kỷ Linh xuống ngựa vào trại, trông thấy Lưu Bị ngồi trong trướng cũng mất vía, quay mình trở ra. Lữ Bố bước lên kéo lại, như kéo đứa trẻ con. Kỷ Linh sợ nói rằng:
- Thế ra tướng quân định giết tôi à!
Bố nói:
- Ðâu lại thế!
Linh lại hỏi:
- Hay là tướng quân định giết thằng tai to kia?
Bố lại nói:
- Cũng không phải.
Linh lại hỏi:
- Thế thì ra làm sao?
Bố nói:
- Lưu Bị cùng ta như anh em một nhà vậy. Nay bị tướng quân sang đây đe dọa, nên ta đến cứu.
Linh lại sợ, nói rằng:
- Nếu thế thì tướng quân giết tôi rồi!
Bố nói:
- Có lẽ đâu thế. Tính tôi không hay đánh nhau, chỉ muốn làm cho thôi đánh nhau. Tôi nay định giải hòa cho hai ông.
Linh nói:
- Xin dám hỏi cách giải hòa thế nào?
Bố nói:
- Tôi có một phép, nhưng còn tùy lòng trời!
Nói rồi kéo Linh vào trong trướng, để hai người gặp nhau, Lưu Bị, Kỷ Linh đều có lòng nghi kỵ lẫn nhau.
Lữ Bố ngồi giữa, mời Kỷ Linh ngồi bên tả, Lưu Bị ngồi bên hữu, rồi sai mở tiệc yến, uống rượu.
Rượu được vài tuần, Bố nói:
- Hai bên cùng nể mặt ta thì cùng bãi binh cả.
Lưu Bị không nói gì. Kỷ Linh nói:
- Tôi phụng mệnh chúa công tôi, đem sang đây mười vạn quân chỉ cốt bắt Lưu Bị, bãi binh thế nào được?
Trương Phi đứng sau lưng Lưu Bị nghe nói nổi giận, tuốt ngay kiếm ra quát to lên rằng:
- Binh ta tuy ít, nhưng ta coi các ngươi như đàn trẻ mà thôi, ngươi có bằng lũ giặc khăn vàng hàng trăm vạn không, mà dám toan hại anh ta?
Quan Công vội vàng ngăn nói rằng:
- Hãy xem chủ ý của Lữ tướng quân định thế nào, bấy giờ về trại đánh nhau cũng không chậm.
Lữ Bố nói:
- Ta mời hai bên đến để giải hòa, chứ không có mời đến đây để đánh nhau.
Bên này Kỷ Linh tức giận lắm, mà bên kia Trương Phi chỉ lăm lăm muốn đánh. Lữ Bố cũng nổi giận lên mà bên kia Trương Phi chỉ lăm lăm muốn đánh. Lữ Bố cũng nổi giận lên mà truyền rằng:
- Quân đâu! Ðem kích ra đây!
Quân đem kích ra đưa cho Lữ Bố. Kỷ Linh, Lưu Bị không biết thế nào, cùng sợ mất vía.
Bố nói:
- Ta can hai bên mãi không nghe. Vậy để tùy lòng trời định quyết việc này!
Không ai hiểu Lữ Bố định làm gì. Lữ Bố sai quân mang họa kích ra ngoài cửa nha môn, cắm tận đằng xa cùng kiệt, rồi ngoảnh lại bảo hai người rằng:
- Từ đây ra đó, cách 150 bước. Ta xin bắn một phát tên, nếu trúng vào ngạnh kích thì hai bên phải bãi binh; nhược bằng bắn không trúng thì mặc ý hai bên đi mà đánh nhau. Ta định như thế, ai không nghe thì ta gồm sức với bên kia để đánh.
Kỷ Linh thấy kích cắm xa thế mười phần chắc cả mười rằng: Lữ Bố tài đến đâu cũng không sao bắn tin được, liền ưng theo ý Lữ Bố.
Lưu Bị thì vẫn đành muốn thế rồi.
Lữ Bố mời hai bên ngồi xuống, mỗi người uống một chén rượu, rượu cạn chén rồi, Bố sai đem cung lại.
Huyền Ðức khấn thầm, chỉ muốn cho bắn trúng là hay.
Lữ Bố vén tay áo bào, đặt mũi tên, giương hết sức cung. Dây cung bật đánh tạch một tiếng, tên ra vùn vụt, mười mắt nhìn theo; chớp mắt một cái trúng ngay ngạnh kích. Các tướng trên trướng dưới thềm đều reo ầm vỗ tay.
Ðời sau có thơ khen rằng:
Ôn Hầu bắn giỏi thật diệu kỳ!
Từng ở nha môn gỡ được nguy.
Trời rụng quả nhiên hơn Hậu Nghệ!
Vượn kêu hơn hẳn sức Do Cơ.
Dây gân hổ kéo cung căng thẳng,
Tên cánh diều bay vụt vụt đi.
Ðuôi báo lung lây xuyên ngạnh kích.
Hùng binh mười vạn có làm chi?
Lữ Bố bắn trúng họa kích rồi miệng cười ha hả, vứt cung xuống đất, cầm tay Lưu Bị và tay Kỷ Linh nói rằng:
- Ỵy là trời bắt hai bên phải bãi binh đó!
Nói rồi, truyền quân sĩ rót rượu, mời mỗi người uống một cốc to làm bằng sừng trâu rừng.
Lưu Bị trong lòng mừng rỡ. Kỷ Linh thì ngồi ngẩn nửa giờ, rồi nói với Lữ Bố rằng:
- Lời tướng quân dạy thì tôi phải nghe, nhưng bây giờ về nói với chúa công tôi, sao chúa công tôi tin?
Bố nói:
- Ðể ta viết thư cho Viên Công Lộ thì xong chứ gì?
Rượu uống được vài tuần nữa, Kỷ Linh xin lĩnh thư về trước. Linh về rồi, Bố bảo Lưu Bị rằng:
- Không có tôi thì ông nguy nhé!
Lưu Bị lạy tạ rồi cùng với Quan, Trương trở về. Hôm sau quân mã ba nơi cùng kéo về cả.
Lưu Bị về Tiểu Bái, Lữ Bố về Từ Châu, còn Kỷ Linh về Hoài Nam vào ra mắt Viên Thuật, kể hết Lữ Bố bắn kích ở nha môn để giải hòa, rồi dânh trình thư của Lữ Bố.
Thuật xem thư giận lắm nói rằng:
- Lữ Bố lấy bao nhiêu lương thóc của ta, nay lại lấy trò trẻ con này để mà bênh Lưu Bị. Phen này ta quyết đem đại quân đi đánh Lưu Bị, xong rồi đánh Lữ Bố nhân thể.
Kỷ Linh nói:
- Chúa công không nên vội vàng: Lữ Bố dũng lực hơn người; vả lại có tất cả đất Từ Châu. Ví bằng Lữ Bố, Lưu Bị cả hai người, đầu đuôi cùng cứu giúp lẫn nhau, chưa dễ đánh được hắn đâu. Tôi nghe vợ Lữ Bố là họ Nghiêm có đứa con gái, đã đến tuổi cập kê rồi. Chúa công thì có con trai. Nên sai người sang Từ Châu cầu thân với hắn. Nếu Lữ Bố thuận gả con cho con chúa công, tất y phải giết Lưu Bị, kế ấy gọi là kế: "sơ bất gián thân".
Viên Thuật nghe kế ấy, lập tức sai Hàn Dận đem lễ vật sang Từ Châu cầu hôn.
Dận đến Từ Châu, vào ra mắt Lữ Bố, thưa rằng:
- Chúa công tôi mộ tiếng tướng quân, muốn cầu lệnh ái làm dâu để kết duyên Tần Tấn.
Bố vào bàn với vợ.
Nguyên Lữ Bố có hai vợ, một thiếp. Vốn chỉ có họ Nghiêm làm vợ cả, Ðiêu Thuyền làm thiếp. Sau đến Tiểu Bái lới lấy con gái Tào Báo làm vợ hai. Họ Tào chết trước không có con; Ðiêu Thuyền cũng không có con nào. Duy chỉ có họ Nghiêm sinh được một con gái. Lữ Bố yêu con gái ấy lắm.
Khi Bố vào bàn với vợ thì họ Nghiêm nói rằng:
- Tôi nghe Viên Công Lộ trấn Hoài Nam đã lâu, binh nhiều, lương lắm, có thể làm nên thiên tử nay mai. Nếu y thành được nghiệp lớn thì con ta mới có phận làm được hậu phi. Nhưng chẳng biết hắn ta có mấy con?
Bố nói:
- Chỉ có một mống mà thôi!
Vợ nói:
- Như thế thì nên gả đứt đi. Mai sau con ta dầu chẳng hậu phi, Từ Châu ta cũng chắc được vững bền không phải lo gì.
Bố nghe lời vợ, đãi Hàn Dận tử tế, nhận lời gả con.
Hàn Dận về trình với Viên Thuật.
Thuật lập tức sắm đủ đồ sính lễ, lại sai Hàn Dận đưa sang Từ Châu.
Lữ Bố nhận lễ, mở tiệc thiết đãi, lưu ở nhà khách nghỉ ngơi.
Hôm sau Trần Cung đến tận nhà khách, vào chào Hàn Dận, ngồi rồi đuổi tả hữu ra, mà bảo với Dận rằng:
- Ai hiến kế ấy, để Viên Công cùng Phụng Tiên kết dâu gia? Có phải định lấy đầu Lưu Bị chăng?
Dận giật mình, đứng dậy tạ mà nói rằng:
- Xin Công Ðài đừng hở chuyện ấy.
Cung nói:
- Ta thì không nói ra, nhưng chỉ sợ việc châm tất có người khác biết thì hỏng mất mà thôi.
Dận nói:
- Thế thì làm thế nào, xin ông dạy cho.
Cung nói:
- Ðể ta vào hầu Phụng Tiên, nói để đưa ngay con gái y sang. Như thế được không?
Dận mừng lắm, tạ ơn mà nói rằng:
- Nếu được thế thì Viên Công đội ơn ngài nhiều lắm.
Cung từ Dận, vào hầu Lữ Bố mà nói rằng:
- Tôi nghe ông gả con gái cho con Viên Công Lộ, thực là hay lắm. Nhưng bao giờ mới cho cưới?
Bố nói:
- Hãy để thong thả sẽ bàn.
Cung nói:
- Ngày xưa, từ hôm dạm đến hôm cưới bao lâu có định lệ cả; thiên tử thì một năm; chư hầu thì nửa năm; đại phu thì một mùa; thứ dân thì một tháng...
Bố nói:
- Viên Công Lộ, trời cho được quốc bảo, nay mai sắp làm vua, thì theo lệ thiên tử có được không?
Cung nói:
- Không nên.
Bố hỏi:
- Thế thì theo lệ chư hầu?
- Cũng không nên.
- Thế thì theo lệ đại phu?
- Cũng không nên.
Bố tức hỏi rằng:
- Thế anh muốn bảo tôi theo lệ thứ dân hay sao?
- Không phải thế!
- Thế thì ý anh ra làm sao?
Cung thưa:
- Nay chư hầu trong thiên hạ tranh hùng với nhau. Ông cùng Viên Công Lộ kết thân, đã chắc không ai ghen ghét chưa? Nếu mà để lâu còn kén ngày lành tháng tốt, ngộ có người rình lúc giờ tốt ấy, phục binh ở nửa đường, toan chuyện bất lương, thì làm sao? Vậy bây giờ chúa công đã không cho thì thôi, mà đã ưng cho thì nhân lúc chư hầu chưa biết, đưa ngay con gái đến Thọ Xuân, cho ở riêng một biệt quán, rồi sẽ chọn ngày thành thân, thế có phải muôn phần vững cả, không ngại gì nữa?
Bố mừng nói rằng:
- Công Ðài nói chí phải.
Bố vào bảo với họ Nghiêm ngay đêm hôm ấy sắm sửa đồ cưới, thu xếp ngựa quý xe thơm; sai Tống Hiến, Ngụy Tụch, cùng Hàn Dận, đưa con gái đi, tiếng trống tiếng nhạc rầm rĩ, đưa ra khỏi thành.
Bấy giờ cha Trần Ðăng là Trần Khuê, dưỡng lão ở nhà, nghe thấy tiếng nhạc, hỏi đày tạ việc gì, đày tớ kể chuyện cưới xin là thế. Khuê nói:
- Mẹo đó là mẹo Sơ bất gián thân đó. Lưu Bị nguy đến nơi!
Nói thế rồi tuy bệnh chưa khỏi cũng gắng gượng lại gặp Lữ Bố và nói rằng:
- Tôi nghe tướng quân sắp chết, nên tôi đến viếng.
Lữ Bố giật nẩy mình hỏi:
- Vì sao lại thế?
Khuê nói:
- Bữa trước Viên Thuật cho đem vàng lụa đến biếu ông, là có ý để giết Lưu Huyền Ðức, ông mới lấy chuyện bắn kích giải hòa. Nay tự dưng đến cầu kết dâu gia, ấy là muốn lấy con gái ông để làm tin đó. Khi nào con ông đã về nhà y, y lại sang đánh Lưu Bị để lấy Tiểu Bái. Tiểu Bái mất thì Từ Châu cũng nguy. Vả lại khi đã kết thân với y rồi, hoặc có khi đến vay lương, có khi y đến mượn binh. Ông mà cho y mượn ra, thì ông đã vất vả về y, lại còn kết oán với người khác; nếu ông không giúp, thì thân thích lìa nhau và lại gây ra sự đánh nhau. Huống chi ông đã biết rằng Viên Thuật có ý muốn xưng đế. Muốn xưng đế là làm phản, thế ra ông còn kết thân với phản tặc, thiên hạ ai còn dung ông nữa?
Bố nghe nói thất kinh mà rằng:
- Trần Cung hắn làm lỡ ta!
Vội vàng sai Trương Liêu đem binh đuổi theo, đến ngoài ba mươi dặm, lôi con gái trở về, và bắt Hàn Dận đem giam lại, rồi sai người sang nói với Viên Thuật rằng: Ðồ nữ trang sắm chưa đủ. Khi nào sắm sửa xong sẽ đưa con gái sang.
Trần Khuê lại xui Lữ Bố cho giải Hàn Dận sang Hứa Ðô nộp cho triều đình. Lữ Bố còn đang tần ngần chưa định bề nào, thì có người đến báo rằng:
- Lưu Bị ở Tiểu Bái chiêu quân tậu ngựa, không biết có tình ý gì.
Bố nói:
- Ðó là việc thường của người làm tướng thôi, có lạ gì?
Ðang nói chuyện thì Tống Hiến, Ngụy Tục chạy vào báo rằng:
- Hai chúng tôi vâng mệnh minh công sai sang Sơn Ðông mua ngựa, có tậu được hơn ba trăm ngựa tốt, đi về đến đầu địa giới huyện Bái, bị kẻ cướp ra cướp mất một nửa. Hỏi dò ra thì đám cướp ấy là Trương Phi, là em Lưu Bị giả làm giặc núi đến ăn cướp.
Lữ Bố giận lắm, lập tức điểm binh đến Tiểu Bái đánh Trương Phi.
Lưu Bị nghe thất kinh, vội vàng dẫn quân ra đón. Khi hai bên bày trận rồi, Huyền Ðức cưỡi ngựa ra mà hỏỉ rằng:
- Huynh trưởng có việc gì đem quân đến đây?
Bố trỏ mắng rằng:
- Ở nha môn ta vừa bắn kích để cứu ngươi khỏi được nạn lớn, nay cớ sao ngươi lại cướp ngựa của ta?
Lưu Bị nói:
- Tôi nay thiếu ngựa có sai người ra bốn mặt tìm mua, chứ có đâu dám cướp của huynh trưởng?
Lữ Bố giận mắng rằng:
- Ngươi sai em là Trương Phi ra cướp của ta một trăm rưởi con ngựa tốt, bây giờ lại chối à?
Trương Phi vác mâu cưỡi ngựa ra nói rằng:
- Chính ta cướp ngựa đấy! Ngươi làm gì nổi ta?
Bố nói:
- Tên giặc mắt tròn kia, ngươi đã bao nhiêu lần khinh ta?
Phi nói:
- Sao ta cướp ngựa của ngươi thì ngươi biết tức, ngươi cướp Từ Châu của anh ta, sao không nói?
Bố vác kích lại đánh Trương Phi. Phi cũng vác mâu lại địch. Hai người đánh nhau hơn một trăm hiệp, chưa phân được thua. Lưu Bị sợ lỡ việc ra, vội vàng khua chiêng thu quân về thành.
Lữ Bố chia quân vây bốn mặt.
Lưu Bị về gọi Trương Phi trách rằng:
- Chỉ tới ngươi cướp ngựa của hắn nên sinh sự thế này. Thế thì ngựa ở đâu?
Phi nói:
- Gởi cả vào các chùa.
Huyền Ðức sai ngay người đến trại Lữ Bố, xin đem nộp trả ngựa rồi hai bên cùng bãi binh.
Lữ Bố muốn cho, Trần Cung nói:
- Nay không giết Lưu Bị đi, ngày sau tất hắn hại mình.
Bố lại nghe, không cho nữa lại càng ra riết đánh thành. Lưu Bị về bàn với Tôn Càn, My Chúc, Càn nói:
- Tào Tháo giận Lữ Bố. Không bằng ta bỏ thành chạy sang Hứa Ðô, về với Tào Tháo, rồi mượn quân đánh Lữ Bố, kế ấy là hơn cả.
Lưu Bị hỏi:
- Ai dám ra trước, phá vòng vây bây giờ?
Trương Phi xin đi.
Lưu Bị sai Trương Phi đi trước, Quan Công đi sau. Còn mình thì ở giữa, giữ gìn vợ con già trẻ, đương đêm canh ba, nhân bóng trăng sáng, ra cửa Bắc chạy, gặp ngay Tống Hiến, Ngụy Tục. Hai tướng ấy bị Trương Phi đánh một trận phải lui.
Lưu Bị ra khỏi vòng vây.
Mặt sau Trương Liêu chạy đuổi. Quan Công đánh cho phải đứng lại.
Lữ Bố thấy Lưu Bị đi rồi không đuổi theo nữa, vào thành yên dân, rồi sai Cao Thuận giữ Tiểu Bái; mình lại về Từ Châu.
Lưu Bị chạy sang Hứa Ðô, đóng trại ở ngoại thành, trước hết sai Tôn Càn vào ra mắt Tào Tháo, nói rằng:
- Vì bị Lữ Bố đánh, xin đến nương nhờ.
Tháo nói:
- Huyền Ðức với ta như anh em.
Liền mời vào tương kiến.
Hôm sau Lưu Bị để Quan, Trương ngoài thành, dắt Tôn Càn, My Chúc vào yết kiến Tào Tháo, Tháo đãi làm bậc khách quý. Khi Lưu kể hết chuyện Lữ Bố, Tháo nói rằng:
- Bố là đồ vô ơn, ta với hiền đệ phải hợp sức lại để trừ hắn mới được.
Lưu Bị tạ ơn. Tháo mở yến thiết đãi, đến chiều tiễn ra về. Tuân Úc vào nói rằng:
- Lưu Bị là người anh hùng. Nay không trừ sớm đi, tất để lo về sau.
Tháo chẳng bảo làm sao, Úc ra, Quách Gia vào. Tháo hỏi:
- Úc xui ta giết Lưu Bị. Nên không?
Gia nói:
- Không nên, chúa công cất quân nghĩa binh, vì trăm họ trừ kẻ hung bạo, giữ điều tín nghĩa, để mời hào kiệt còn lo người ta chẳng đến, nay Huyền Ðức có tiếng anh hùng, vì cùng khốn, mới về với ta, nếu lại giết đi, chẳng hóa ra mình hại người hiền. Những người chí sĩ trong thiên hạ nghe thấy sinh ngờ còn ai bước chân vào cửa chúa công nữa, chúa công cùng với ai mà định việc thiên hạ? Trừ được cái lo một người, mà làm cản trở lòng trông ngóng của bốn bể. Cái cơ yên nguy, xin chúa công phải xét mới được.
Tháo mừng nói rằng:
- Người nói chính hợp bụng ta.
Hôm sau Tháo dâng biểu tiến Lưu Bị, xin cho lĩnh chức mục Dự Châu.
Trình Dục can rằng:
- Lưu Bị về sau tất không chịu ở dưới người khác đâu, không bằng giết trước đi.
Tháo nói:
- Nay đương lúc dụng anh hùng, không nên giết một người để mất lòng thiên hạ. Ta với Quách Gia cùng một ý kiến.
Tháo không nghe lời Trình Dục, lại lấy ba ngàn quân và một vạn hộc lương, giao cho Lưu Bị, sai ra Dự Châu nhận chức, tiến quân đóng ở Tiểu Bái, chiêu tập những binh cũ của mình để rồi đánh Lữ Bố.
Huyền Ðức đến Dự Châu, sai người về hẹn với Tào Tháo định ngày cất quân cùng đi đánh Lữ Bố. Khi Tháo sắp đi, có ngựa lưu tinh đến báo rằng:
- Trương Tế từ Quan Trung dẫn quân đến đánh Nam Dương, lỡ phải tên bay bắn chết. Nay cháu Tế là Trương Tú cầm quân, dùng Giả Hủ là mưu sĩ, kết liên với Lưu Biểu đóng quân ở Uyển Thành, muốn đem quân lại phạm cửa Khuyết để cướp giá.
Tháo tức lắm, muống đem binh ra đánh, lại sợ Lữ Bố đến cướp Hứa Ðô, mới hỏi Tuân Úc xem có kế gì.
Tuân Úc nói:
- Việc ấy thực dễ, Lữ Bố là đứa vô mưu, thấy lợi thì hoa mắt lên, minh công nên sai sứ sang Từ Châu, thăng quan thưởng hậu cho hắn, bắt hắn phải hòa với Lưu Bị. Lữ Bố được thưởng tất không nghĩ xa xôi gì nữa.
Tháo ưng ý, liền sai Phụng Quân Đô Úy là Vương Tắc đem bằng sắc cùng tờ giải hòa sang Từ Châu. Một đường thì cắt ngay mười lăm vạn quân đi đánh Trương Tú, chia quân ra làm ba đường; cho Hạ Hầu Ðôn làm tiên phong, quân mã đến Vị Thủy đóng trại.
Giả Hủ thấy vậy khuyên bảo Trương Tú rằng:
- Quân Tào thế lớn lắm, ta không địch nổi. Chi bằng đem quân đầu hàng.
Tú nghe, sai Giả Hủ đến trại Tháo nói trước, Tháo thấy Giả Hủ ứng đối nhanh nhảu, có bụng yêu mến, muốn dùng làm mưu sĩ. Hủ nói:
- Tôi trước theo Lý Thôi, mắc tội với thiên hạ; nay theo Trương Tú, tôi nói gì, bày kế gì Trương Tú cũng theo, nên không nỡ bỏ.
Hủ nói rồi ra về; hôm sau đưa Tú vào yết kiến Tào Tháo. Tháo tiếp đãi thực hậu. Tú dẫn binh vào đóng trong Uyển Thành, lập doanh trại liên tiếp nhau, dài hơn mười dặm. - được vài ngày, Tú mỗi hôm mở yến một lần mời Tháo.
Một bữa Tháo uống rượu say, vào giường ngủ, hỏi nhỏ tả hữu rằng:
- Trong thành có kỹ nữ không?
Ðứa cháu, con của anh Tháo, tên là Tào An Dân, biết ý Tháo, vào thưa thầm rằng:
- Thưa chú, chiềm hôm qua, cháu trông thấy ở cạnh quán sá có một người đàn bà, mười phần xinh đẹp. Cháu hỏi ra thì là vợ Trương Tế, thím Trương Tú.
Tháo nghe nói, liền sai An Dân đem 50 giáp binh ra đòi vào.
Ðược một lát, binh dẫn vào. Tháo trông ra quả nhiên là xinh đẹp, hỏi họ chi, thì người đàn bà thưa rằng:
- Thiếp họ Châu, vốn là vợ Trương Tế.
Tháo hỏi:
- Phu nhân có biết ta không?
- Thiếp được nghe uy danh Thừa Tướng đã lâu. Nay mới được bái kiến.
- Ta cho Trương Tú hàng cũng vì phu nhân đó, nếu không ta đã giết cả họ hắn rồi.
Thực đội ơn tái sinh của ngài.
Tháo nói:
- Hôm nay trời xui được gặp phu nhân, thực là may quá. Ðêm hôm nay xin cùng chăn chiếu, rồi sẽ theo ta về kinh đô, yên hưởng giàu sang. Phu nhân có thuận không?
Châu thị lạy tạ. Ðêm hôm ấy cùng ngủ trong trướng. Hôm sau Châu thị nói:
- Thiếp ở lâu trong thành, Trương Tú tất sinh nghi, vả sợ miệng tiếng người ngoài.
Tháo nói:
- Ðến mai tôi xin cùng phu nhân ra ở trại ngoài thành.
Hôm sau Tháo ra nghỉ ở ngoài thành, sai Ðiển Vi canh giữ bên ngoài, ai vào phải báo trước, cho vào mới được vào.
Vì thế, tin tức trong ngoài không thông. Tào Tháo mỗi ngày cùng họ Châu vui thú, không tưởng gì đến về nữa.
Người nhà Trương Tú, có người mật báo với Trương Tú. Tú giận lắm nói rằng:
- Thằng giặc Tháo hắn làm nhục ta quá!
Bèn mời Giả Hủ đến bàn. Hủ nói:
- Việc ấy đừng tiết lộ ra vội. Ngày mai đợi lúc Tào Tháo ra trướng bàn việc, thời nên làm thế này... thế này...
Hôm sau Tào Tháo ngồi ở trong trướng. Trương Tú vào bẩm rằng:
- Những binh lính mới hàng, nhiều đứa đi trốn, xin Thừa Tướng cho đem đồn vào trung quân.
Tháo ưng thuận. Tú liền dời đồn vào, chia làm bốn trại rồi định ngày khởi sự.
Nhưng Tú còn lo Ðiển Vi khỏe mạnh, khó lòng gần được, bàn với thiên tướng là Hồ Xa Nhi.
Hồ Xa Nhi sức đội được 500 cân, một ngày đi được 700 dặm cũng là một người tài.
Khi ấy Tú hỏi, Hồ Xa Nhi nói:
- Ðiển Vi chỉ giỏi về đôi thiết kích. Ngày mai chúa công ời hắn đến uống rượu, cho uống thực say hãy để về. Bấy giờ tôi sẽ lộn vào đám quân sĩ đi theo hắn, lẻn vào trong phòng, ăn trộm được đôi kích thì không sợ gì hắn nữa.
Tú mừng lắm, sai chuẩn bị cung tên, giáp binh, bảo trước các trại, đến hẹn sai Giả Hủ mời Ðiển Vi đến chơi, khẩn khoản mời rượu. Vi đến, tối sai về. Hồ Xa Nhi đi lẫn trong đội quân, lẻn vào trong trại.
Ðêm hôm ấy, Tào Tháo cùng họ Châu đang uống rượu ở trong trướng, chợt nghe ở ngoài có tiếng xôn xao và tiếng ngựa kêu. Tháo sai người ra coi xem có việc gì, quân vào báo rằng: quân Trương Tú đi tuần đêm.
Tháo không nghi gì nữa.
Ðến canh hai ở sau trại lại có tiếng reo, rồi quân lại vào báo rằng:
- Trên những xe cỏ có lửa cháy.
Tháo truyền rằng:
- Ấy là chúng nó lỡ đánh rơi lửa, không ai được xôn xao.
Ðược một hồi thì bốn mặt lửa cùng cháy cả.
Bấy giờ Tháo mới hoảng sợ, vội vàng sai gọi Ðiển Vi.
Ðiển Vi say rượu đang ngủ, trong mơ màng chợt nghe tiếng chiên trống và tiếng người reo hò, giật nẩy mình vùng dậy, sờ đến đôi thiết kích thì không thấy đâu cả.
- Ngoài giặc đã đến cửa. Vi vội vàng giật lấy đao lưng của lính canh, chạy ra, ở ngoài đã thấy vô số quân mã, cầm chặt giáo dài đánh bừa vào trại.
Vi phải nhất sống nhì chết mà lăn sả vào đám quân ấy, chém giết một lúc chết hơn hai mươi người, quân mã ấy mới lui, lại có quân bộ kéo đến. Hai bên giáo mác tua tủa như ngọn lau, mình Vi không một mảnh giáp, trên dưới bị vài mươi nhát đâm. Vi vẫn cứ lăn sả vào đánh; đao mẻ không dùng được, Vi bỏ đao, hai tay vạ ngay lấy hai người làm khí giới, quăng đập một lúc chết tám chín người. Giặc thấythế không dám đến gần, chỉ đứng đằng xa bắn tên lại. Tên bắn như mưa, Ðiển Vi vẫn liều chết giữ cửa trại, nhưng quân giặc đã kéo được vào cửa sau, Ðiển Vi lại bị một mũi giáo đâm trúng giữa lưng. Vi kêu to một tiếng, máu chảy đầy đất rồi chết. Hắn chết được nửa giờ rồi mà vẫn không ai dám đi qua cửa trước.
Tào Tháo nhờ có Ðiển Vi chẹn giữ của trước mới lẻn ra sau trại lên ngựa trốn thoát, chỉ có Tào An Dân đi bộ chạy theo.
Lúc chạy, ngựa Tháo bị một mũi tên, nhưng may được con ngựa tốt, ngựa Ðại Uyên, càng đau càng chạy khỏe.
Chạy gần đến bờ sông Dục Thủy thì giặc đuổi kịp. An Dân bị băm nhỏ ra như bùn, Tháo vội quất ngựa lội qua sông mà chạy. Vừa sang đến bờ bên kia, thì giặc bắn một tên, trúng vào mắt ngựa. Ngựa ngã gục xuống đất. May đâu, giữa lúc ấy thì con trưởng Tháo là Tào Ngang đem ngay con ngựa đang cưỡi nhường cho cha.
Tháo lên ngựa chạy. Tào Ngang bị tên lạc bắn chết, Tháo đi đường gặp các tướng mới thu thập tàn quân lại.
Bấy giờ, quân Thanh Châu do Hạ Hầu Ðôn quản lĩnh, thừa thế về các thôn quê cướp bóc nhân dân. Quan binh lỗ hiệu úy là Vu Cấm đem ngay quân bản bộ dẹp bắt, vỗ yên nhân dân.
Quân Thanh Châu chạy về đón Tào Tháo, khóc lóc lạy xuống đất kêu rằng:
- Vu Cấm làm phản đuổi giết quân mã Thanh Châu.
Tháo thất kinh. Ðược một hồi thì Hạ Hầu Ðôn, Hứa Chử, Lý Ðiển, Nhạc Tiến đều đến. Tháo truyền:
- Vu Cấm làm phản, chư tướng nên đem quân ra đánh.
Vu Cấm thấy cả bọn Tào Tháo đến, đem quân ra dàn thành góc trận, đào hào cắm trại.
Có kẻ thấy vậy bảo Cấm rằng:
- Quân Thanh Châu vu cho ông làm phản, nay thừa tướng đã đến, ông chưa ra nói inh bạch, sao lại lập trại trước?
Vu Cấm nói:
- Nay giặc đuổi ở sau lưng, đã sắp đến nơi. Nếu không phòng bị trước thì lấy gì mà đối địch với giặc. Minh biện là việc nhỏ, đánh giặc là việc quan hệ hơn.
Lập trại vừa xong thì quân Trương Tú hai đường kéo đến. Vu Cấm thân ra trước nghênh địch. Tú vội lui quân. Các tướng thấy Vu Cấm xông lên trước, bèn dẫn quân đánh ào lên, đuổi giết hơn một trăm dặm. Quân Tú thua to.
Tú thế cùng, nhặt nhạnh tàn quân về theo Lưu Biểu.
Tào Tháo thu quân điểm tướng. Vu Cấm vào hầu, kể hết cả chuyện quân Thanh Châu đi ăn cướp, làm mất lòng dân, nên y mạp phải dẹp đi. Tháo hỏi:
- Sao ngươi không nói gì với ta, mà lập trại trước là ý thế nào?
Cấm lại đem lời đã nói trước mà giải thích minh bạch để Tào Tháo nghe. Tháo khen rằng:
- Tướng quân trong lúc bối rối, thế mà nghiêm được binh, bền được lũy, mặc người gièm pha, chịu khó nhọc làm cho đang thua hóa ra được, dù danh tướng đời xưa, vị tất đã có ai hơn.
Tháo thưởng cho Vu Cấm một bộ đồ vàng, phong cho làm Ích Thọ Đình Hầu; lại trách Hạ Hầu Ðôn trị quân không nghiêm, rồi làm lễ tế Ðiển Vi.
Tháo thân ra cúng tế khóc than, rồi ngoảnh lại bảo các tướng rằng:
- Ta mất một con trưởng và một cháu yêu, cũng không thương là mấy, chỉ thương khóc Ðiển Vi mà thôi.
Các tướng ai cũng cảm thương.
Hôm sau Tháo hạ lệnh rút quân về Hứa Ðô.
Nay hãy nói chuyện Vương Tắc đem chiếu đến Từ Châu.
Lữ Bố mời Tắc vào phủ, mở đọc chiếu thư, thì chiếu phong cho Bố làm Bình Đông tướng quân, cho ấn thụ, lại đưa thư riêng của Tháo.
Vương Tắc nói đi nói lại mãi với Lữ Bố rằng Tào công kính trọng. Bố mừng lắm. Chợt có người báo Viên Thuật sai người sang. Bố gọi vào hỏi, người ấy nói rằng:
- Viên công nay mai sắp lên ngôi hoàng đế, lập ngôi đông cung, sai tôi sang thúc hoàng phi về Hoài Nam.
Bố nổi giận quát rằng:
- Phản tặc sao dám thế?
Liền giết kẻ sứ của Viên Thuật và đóng gông Hàn Dận, sai Trầng Ðăng mang tờ tạ biểu và giải Hàn Dận cùng Vương Tắc đến Hứa Ðô để tạ ân vua và đáp thư Tào Tháo, và xin thực thụ chức mục ở Từ Châu.
Tháo biết việc kết hôn Viên Thuật với Lữ Bố đã lỡ làng rồi, mừng lắm, đem Hàn Dận ra chém ngoài chợ.
Trần Ðăng nói nhỏ với Tháo rằng:
- Lữ Bố là giống sài lang, khỏe mà vô mưu, khinh đường việc lui và tới, nên sớm liệu trừ đi.
Tháo nói:
- Ta vẫn biết Lữ Bố là một loài sói lòng tham, không nên nuôi lâu. Nhưng phi cha con nhà ông thì không ai dò hết được tình hình hắn. Ông nên cùng với ta mưu toan việc ấy.
Ðăng nói:
- Thừa tướng định làm gì, tôi xin nội ứng.
Tháo mừng lắm, biểu tâu cho Trần Khuê là cha Trần Ðăng ăn lộc trung nhị thiên thạch và cho Ðăng làm Thái Thú ở Quảng Lăng.
Ðăng từ tạ rồi về, Tháo cầm tay Ðăng dặn rằng:
- Việc ở phương Ðông tôi giao phó cho ông đó.
Ðăng gật đầu xin vâng, về Từ Châu vào gặp Lữ Bố. Bố hỏi chuyện. Ðăng cũng kể việc Tào Tháo cho cha ăn lọc và mình được làm thái thú. Bố giận lắm nói rằng:
- Ta sai ngươi sang để cầu chức mục Từ Châu cho ta, ta chẳng được gì, mà cha con ngươi đều được hiển quý, thế là ta bị cha con ngươi đem bán để làm lợi ình.
Lữ Bố nói xong rút kiếm toan chém Trần Ðăng. Ðăng cười ha hả mà nói rằng:
- Sao tướng quân lại tối hiểu như thế!
Thế nào là tối hiểu?
Ðăng thưa:
- Tôi vào gặp Tào công, nói rằng: Nuôi tướng quân như nuôi hổ, nên cho ăn no thịt, nếu không ăn no thì tất cắn người. Tào công cười nói rằng: Ta đãi Ôn Hầu như nuôi chim cắt, cáo thỏ chưa trừ được chưa dám cho ăn no vội, bởi vì đói thì còn dùng được, chớ no thì bay mất. Tôi hỏi: Cáo thỏ là gì? Tào công nói: Viên Thuật ở Hoài Nam, Tôn Sách ở Giang Ðông, Viên Thiệu ở Ký Châu, Lưu Biểu ở Kinh Châu, Lưu Chương ở Ích Châu, Trương Lỗ ở Hán Trung, tuyền là cáo thỏ cả.
Bố nghe nói, ném kiếm xuống đất, cười rằng:
- Tào công thực biết ta đó!
Giữa lúc ấy thì có người lại báo rằng:
- Viên Thuật đem quân đến lấy Từ Châu!
Lữ Bố thất kinh.
Thế thực là:
Hôn nhân gây sự can qua,
Tưởng là Tần - Tấn, hóa là Việt - Ngô.
Chưa biết rồi ra thế nào, xem đến hồi sau sẽ rõ.
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 17: Viên Công Lộ Hưng Binh Bảy Đạo Tào Mạnh Ðức Hội Tướng Ba Miền


Viên Thuật ở Hoài Nam đất rộng lương nhiều, lại có ngọc tỉ của Tôn Sách gửi làm tin, có ý muốn tiếm xưng đế hiệu, hội cả các bầy tôi bàn rằng:
- Xưa Hán Cao Tổ chẳng qua là một người đình trưởng ở Tứ Thượng, thế mà lấy được thiên hạ. Từ bấy giờ đến nay đã bốn trăm năm, khí số đã hết. Trong bốn bể loạn tứ tung như vạc sôi. Mà nhà ta thì bốn đời làm đến tam công, trăm họ ai cũng trông ngóng. Ta muốn ứng vận trời, thuận lòng người, lên ngôi cửu ngũ, các người nghĩ thế nào?
Chủ Bạ là Diêm Tượng can rằng:
- Xưa Hậu Tắc nhà Chu, chứa đức chất công; đến đời Văn Vương, thiên hạ chia ba có hai phần, còn phải thờ nhà Ân. Nay minh công gia thế tuy rằng quý, nhưng chưa được thịnh bằng nhà Chu. Nhà Hán tuy rằng suy, nhưng chưa đến nỗi tàn bạo như vua Trụ nhà Ân. Việc ấy quyết không nên làm.
Thuật giận nói rằng:
- Ta họ Viên do từ họ Trần mà ra, mà họ Trần vốn là cháu vua Ðõi Thuấn ngày xưa; thuộc về hành Thổ, lấy Thổ kế vào Hỏa chính ứng vận trời. Vả lại có câu sấm rằng: Thay nhà Hán ấy là chỗ cau ở giữa đường. Tên tự ta là Công Lộ, thế thì chính ứng câu sấm ấy. Lại có ngọc tỉ truyền quốc, nếu ta không làm vua, thì hóa ra trái đạo trời mất. Ý ta đã quyết, ai còn can nữa ta chém.
Lập tức đặt hiệu gọi là Trọng Thị, lập ra các quan, đài, sảnh: cưỡi kiệu long phượng, tế thần Nam Giao, Bắc Giao, lập con gái Phùng Phương làm hoàng hậu, lập con trai làm Ðông cung, rồi sai sứ sang Từ Châu để xin cưới con gái Lữ Bố về làm Ðông cung phi.
Nhưng nghe nói Lữ Bố đem giải Hàn Dận vào Hứa Ðô và đã bị Tào Tháo chém rồi, Thuận giận lắm, liền cử Trương Huân làm Ðại tướng quân thống lĩnh đại quân hơn hai mươi vạn, rồi chia làm bảy đạo sang đánh Từ Châu:
1. Trương Huân đi giữa;
2. Thượng tướng Kiều Dị đi bên tả;
3. Trần Kỷ đi bên hữu;
4. Phó tướng Lôi Bạc đi bên tả;
5. Trần Lan đi bên hữu;
6. Hàng tướng Hàn Tiêm đi bên tả;
7. Dương Phụng đi bên hữu.
Ðạo nào cũng thống lĩnh tướng đội, chọn ngày cất quân; lại sai thứ sử Duyện Châu Kim Thượng làm Thái Úy coi vận tiền lương cho bảy đạo quân.
Thượng không nghe, Thuận giết Thượng, lấy Kỷ Linh làm đô cứu ứng sứ để tiếp ứng cho bảy đạo quân.
Thuận tự lĩnh ba vạn quân sai Lý Phong, Lương Cương, Nhạc Tựu làm thôi tiến sứ, để đi lại cứu ứng quân bảy đạo.
Lữ Bố sai người đi dọ thám, biết tin đạo quân Trương Huân đi theo đường cái lớn đến lấy Từ Châu; đạo Kiều Dị thì lấy Tiểu Bái; đạo Trần Kỷ lấy Nghi Ðô; đạo Lôi Bạc thì lấy Lương Gia; đạo Trần Lan thì lấy Kệ Thạch; đạo Hàn Tiêm thì lấy Hạ Phì; đạo Dương Phụng thì lấy Tuấn Sơn.
Cả bảy đạo quân mã, mỗi ngày đi được 50 dặm, đi đến đâu cướp phá đến đó.
Bố nghe thám về báo thế, cho đi mời các mưu sĩ lại để bàn.
Trần Cung và cha con Trần Khuê cũng đến cả.
Trần Cung nói:
- Cái vạ Từ Châu này chỉ là do cha con Trần Khuê gây ra, nịnh triều đình để cầu tước lộc, mà để vạ lây đến tướng quân. Nay nên đem hai người ấy chém đi, mang đầu sang nộp Viên Thuật, thì lập tức Thuật rút quân về ngay.
Lữ Bố lập tức sai người lôi cha con Trần Khuê, Trần Ðăng ra chém, Trần Ðăng cười to lên nói rằng:
- Sao lại hèn thế? Bảy đạo quân Viên Thuật ta coi như cỏ rác mà thôi. Việc gì phải lo cuồng lên như vậy?
Bố truyền khoan chém rồi bảo Trần Ðăng rằng:
- Hễ ngươi có kế gì phá được giặc thì ta tha cho.
Ðăng nói:
- Nếu tướng quân nghe lời tôi, thì Từ Châu quyết không lo ngại gì cả.
Bố nói:
- Thử nói đi!
Ðăng nói:
- Quân Thuật tuy nhiều nhưng là quân ô hợp, không thân tín nhau. Nếu ta lấy chính binh mà giữ, lấy kỳ binh mà đánh, tất nhiên thành công. Tôi lại có một kế nữa: không những là giữ vững được Từ Châu lại còn bắt sống được Viên Thuật.
Lữ Bố hỏi kế ra làm sao, Ðăng nói:
- Hàn Tiêm, Dương Phụng nguyên là cựu thần nhà Hán; nhân sợ Tào Tháo mà chạy; không có nơi nương tựa cho nên phải theo Viên Thuật. Thuật tất cũng khinh thường họ, mà họ hẳn cũng không vui lòng để cho Thuật sai khiến. Nếu bây giờ ta đưa thư cho hai người ấy, nhử họ làm nội ứng, rồi ta lại nhờ Lưu Bị làm ngoại hợp, chắc là bắt sống được Thuật.
Bố nói:
- Ngươi phải đem thư cho Dương Phụng, Hàn Tiêm nhé?
Ðăng xin vâng.
Bố liền dâng biểu đến Hứa Ðô, và đưa thư sang Dự Châu cho Lưu Bị, rồi mới sai Trần Ðăng dẫn vài quân kỵ, sang trước đường Hạ Phì để đón Hàn Tiêm.
Khi Hàn Tiêm dẫn quân đến, lập trại rồi, Ðăng vào yết kiến.
Tiêm hỏi:
- Ngươi là người của Lữ Bố lại đây làm gì?
Ðăng nói:
- Ta là công khanh nhà Hán, sao lại gọi là người của Lữ Bố? Như tướng quân trước làm tôi nhà Hán, bây giờ lại làm tôi thằng phản tặc, thế là công cứu giá Quan Trung ngày xưa hóa thành công cốc. Tôi trộm nghĩ lấy làm tiếc cho tướng quân. Vả lại tính Viên Thuật là đứa đa nghi, tướng quân theo hắn rồi sau hại tới thân. Nay không sớm liệu đi, sau hối không kịp nữa.
Tiêm than rằng:
- Tôi cũng muốn về với nhà Hán, ngặt vì không có đường về.
Bấy giờ Ðăng mới đưa thư của Lữ Bố ra.
Tiêm xem xong nói rằng:
- Tôi xin lĩnh lời Lữ Ôn Hầu. Xin ông cứ về trước, để tôi cùng Dương tướng quân sẽ trở giáo đánh lới Viên Thuật. Ông về nói với Lữ Ôn Hầu hễ thấy lửa cháy làm hiệu thì đem binh đến tiếp ứng, tất là được.
Ðăng từ giã Tiêm về trình với Lữ Bố.
Bố chia quân ra làm năm đạo: Cao Thuận dẫn một đạo tiến lên đến Tiểu Bái để chống với Kiều Dị; Trần Cung dẫn một đạo đến Nghi Ðô để địch với Trần Kỷ; Trương Liêu và Tang Bá dẫn một đạo đến Lương Gia để địch với Lôi Bạc; Tống Hiến, Ngụy Tục dẫn một đạo đến Kế Thạch để địch với Trần Lan; Lữ Bố thì tự dẫn một đạo đi ra đường cái lớn để đón Trương Huân. Mỗi đạo đem đi một vạn quân, còn thừa để lại giữ thành.
Lữ Bố ra khỏi thành được ba mươi dặm đóng trại. Quân Trương Huân kéo đến, liệu chừng địch với Lữ Bố không nổi, lùi lại hai mươi dặm đóng đồn để đợi quân bốn đạo tiếp ứng.
Canh hai đêm hôm ấy Hàn Tiêm, Dương Phụng đem quân kéo lại đốt lửa làm hiệu, quân Lữ Bố ùa vào trại Trương Huân.
Quân Huân cuống cuồng.
Lữ Bố thừa thế đánh dấn vào.
Huân thua chạy.
Lữ Bố đuổi vừa đến sáng, gặp quân Kỷ Linh tiếp ứng cho Trương Huân vừa đến.
Hai bên vừa sắp sửa đánh nhau, thì Hàn Tiêm, Dương Phụng hai đạo cùng đánh xô đến.
Kỷ Linh cũng thua chạy nốt.
Lữ Bố đuổi theo đánh.
Bỗng thấy ở mé sau núi có một toán quân kéo ra.
-Ở ngoài có một hàng cờ bay phất phới, trong một đội quân mã, vác những cờ vẽ rồng vẽ phượng, cùng là kiếm vàng búa bạc, mao trắng, việt vàng; ở dưới thì tán tía lọng vàng.
Viên Thuật mình mặc áo giáp vàng, nách đeo đôi đao, cưỡi ngựa đứng trước cửa trận, gọi mắng Lữ Bố là đứa phản chủ.
Bố giận vác kích xông vào.
Tướng Thuật là Lý Phong, vác giáo ra địch. ựánh nhau chưa được ba hiệp, bị Lữ Bố đâm vào cánh tay.
Phong bỏ giáo chạy.
Bố thúc quân vào đánh giết.
Quân Viên Thuật cuống cuồng chạy trốn.
Lữ Bố dẫn quân đuổi theo, cướp giật được ngựa và áo giáp vô số.
Viên Thuật dẫn bại quân chạy, mới được vài dặm, sau núi có một toán quân kéo ra, chẹn ngang đường đi.
Một tướng đứng đầu toán quân ấy là Quan Vân Trường, gọi to lên rằng:
- Phản tặc, không chịu chết đi, còn chạy đâu?
Viên Thuật cắm đầu cắm cổ chạy, quân sĩ tán loạn bị Quan Công đánh một trận thật dữ dội.
Viên Thuật thu nhặt được ít tàn quân chạy về Hoài Nam.
Lữ Bố thắng trận, mời Quan Công, Hàn Tiêm, Dương Phụng về cả Từ Châu, mở một tiệc yến to ăn mừng.
Quân sĩ cùng được khao thưởng cả.
Hôm sau Quan Công từ tạ xin về.
Lữ Bố tâu xin cho Hàn Tiêm làm mục ở Nghi Ðô; Dương Phụng làm mục ở Lương Gia. Lúc Bố muốn lưu hai người lại ở Từ Châu, Trần Khuê nói:
- Hai người ấy không nên để ở Từ Châu. Cứ cho họ sang giữ ở Sơn Ðông thì tôi chắc chỉ trong một năm, bao nhiêu thành quách đất Sơn Ðông đều về tay tướng quân cả.
Bố nghe Khuê, tạm cho hai người ra đóng ở Nghi Ðô, Lương Gia để đợi ân mệnh.
Trần Ðăng thấy vậy mới hỏi cha rằng:
- Sao cha không để hai người ấy ở Từ Châu, làm tay trong ình để giết Lữ Bố.
Khuê nói:
- Thế ngộ hai người cùng hiệp sức giúp Lữ Bố thì có phải hóa ra thêm nanh vuốt cho hổ không?
Ðăng phục cao kiến của cha.
Viên Thuật thua về Hoài Nam, sai người sang Giang Ðông, hỏi Tôn Sách ượn quân để báo thù.
Sách giận mà nói rằng:
- Ngươi lấy không ngọc tỉ của ta, tiếm xưng đế hiệu, làm phản nhà Hán, xấc láo không biết đạo, ta đang muốn đem quân sang hỏi tội ngươi, đời nào lại đi giúp đứa phản tặc?
Bèn viết thư cự tuyệt Viên Thuật.
Thuật xem thư giận nói rằng:
- Thằng trẻ con miệng còn hơi sữa mà dám xấc à, ta phải đánh trước nó đi mới được.
Trưởng sử là Dương Ðại tướng ngăn can mãi Thuật mới thôi.
Tôn Sách từ khi đưa thư, sợ Viên Thuật đem quân đến, điểm binh giữ cửa sông.
Chợt có sứ Tào Tháo đến, đem chiếu chỉ cho Sách làm Thái Thú ở Cối Kê, và sai khởi binh sang đánh Viên Thuật.
Sách bàn bạc với các tướng, muốn khởi binh, Trưởng Sử là Trương Chiêu can rằng:
- Thuật tuy rằng mới thua, nhưng binh nhiều lương đủ, chưa dễ đánh được, không bằng đưa thư cho Tào Tháo, bảo hắn cứ sang đánh trước, rồi ta làm hậu ứng. Hai bên cùng hiệp lại đánh, quân Thuật phải thua, vậy ta chắc được vạn phần, vạn nhất có thua, có Tào Tháo cứu đỡ.
Sách nghe lời, sai sứ giả cứ như thế sang trình với Tào công.
Tào Tháo về đến Hứa Ðô thương nhớ Ðiển Vi lập miếu để thờ, rồi phong cho con Ðiển Vi là Ðiển Mãn làm Trung Lang, đem về phủ nuôi.
Bấy giờ có quân báo Tôn Sách sai sứ giả đem thư đến.
Tháo xem xong thư, lại có người báo rằng:
- Viên Thuật thiếu lương ra cướp ở Trần Lưu.
Tháo muốn thừa cơ sang đánh, sai Tào Nhân giữ lấy Hứa Ðô, còn bao nhiêu tướng sĩ bắt phải đi cả. Quân mã bộ cả thảy mười bảy vạn người, xe lương hơn một ngàn chiếc, một mặt sai người ra hẹn với Tôn Sách, Lưu Bị, Lữ Bố.
Khi quân đi đến địa giớ Dự Châu, Lưu Bị dẫn quân ra đón.
Tháo sai mời vào trại, Lưu Bị vào dâng hai cái đầu.
Tháo giật mình hỏi:
- Ðầu nào?
Lưu Bị nói:
- Ðây là đầu Dương Phụng, Hàn Tiêm.
Tháo hỏi:
- Sao lại giết hai người ấy?
Lưu Bị thưa:
- Lữ Bố sai hai người quyền coi Nghi Ðô, Lương Gia và tâu xin cho được thực thụ chức mục hai nơi ấy. Không ngời hai người thả quân cho ăn cướp của dân, ai cũng ta thán. Bởi thế tôi có làm một tiệc rượu, mời hai người đến bàn việc. Trong khi uống rượu, tôi ném chén làm hiệu sai Quan, Trương là hai em tôi đem hai người giết đi, bắt hết quân hàng phục. Vì thế nên nay lại thú tội với Thừa Tướng.
Tháo nói:
- Ông trừ hại cho nhà nước, ấy là công to, sao lại gọi là tội?
Tháo thưởng cho Lưu Bị, rồi hai bên cùng hợp binh lại, đến địa giới Từ Châu.
Lữ Bố ra đón.
Tháo lấy lời ngọt ngào dỗ dành Lữ Bố, phong cho làm tả tướng quân, hứa rằng: khi nào về Hứa Ðô sẽ đổi ấn khác.
Bố mừng lắm.
Tháo chia quân Lữ Bố ở tả, quân Lưu Bị ở hữu, còn mình tự lĩnh đại quân ở giữa; sai Hạ Hầu Ðôn, Vu Cấm làm tiên phong.
Viên Thuật biết quân Tào đã đến nơi, sai Kiều Dị đem năm vạn quân làm tiên phong.
Hai bên gặp nhau ở giáp giới Thọ Xuân. Kiền Dị tế ngựa ra trước, đánh nhau với Hạ Hầu Ðôn, chưa được ba hiệp, bị Ðôn đâm chết.
Quân Thuật thua chạy về thành. Giữa lúc ấy lại có người báo rằng:
- Tôn Sách đem thuyền đánh mặt Tây; Lữ Bố đem binh đánh mặt Ðông; ba anh em Lưu, Quan, Trương dẫn binh đánh mặt Nam; Tào Tháo thì dẫn mười bảy vạn quân đánh mặt Bắc.
Thuật nghe báo vội vàng họp cả văn võ lại để bàn. Dương đại tướng nói:
- Ðất Thọ Xuân luôn mấy năm nay nước lụt rồi nắng to, dân gian đói khát cực khổ. Nếu bây giờ lại cất quân thì nhiễu dân quá, tất dân oán mình, giặc đến khó lòng mà cự được, không bằng đóng quân ở Thọ Xuân, không đánh nhau với quân địch, đợi quân địch cạn lương tất nhiên sinh biến. Bây giờ bệ hạ hãy nên đem quân ngự lâm qua sông Hoài, trước là sang chỗ lúa chín, sau nữa là hãy tạm lánh thế mạnh của quân địch.
Thuật nghe lời, cho Lý Phong, Nhạc Tựu, Lương Cương và Trần Kỷ, cả thảy bốn tướng với mười vạn quân để giữ Thọ Xuân, còn bao nhiêu tướng giỏi, cùng là vàng bạc châu báu trong kho, thu xếp nhặt nhạnh hết đem qua sông Hoài Nam.
Quân Tào Tháo mười bảy vạn mỗi ngày ăn lương tốn lắm. Các quận lại mất mùa, chuyển vận không kịp.
Tháo thúc quân đánh mau.
Lũ Lý Phong cứ đóng chặt cửa thành không ra. Quân Tháo đánh thành hơn một tháng, lương ăn gần hết.
Tháo đưa thư sang vay Tôn Sách được mười vạn hộc lương. Quan coi lương là Vương Hậu thấy ít quá không đủ phát cho quân, vào bẩm với Tháo, hỏi xem nên làm thế nào?
Tháo nói:
- Ðem hộc nhỏ mà phát cho chúng nó, tạm cấp cứu lấy một lúc.
Hậu lại hỏi:
- Thế ngộ quân sĩ kêu ca thì nói thế nào?
Tháo nói:
- Ta đã có cách.
Hậu vâng lệnh, lấy hộc nhỏ đong lương phát cho quân.
Tháo cho người đi dò các trại, chỗ nào cũng thấy quân ta thán rằng: thừa tướng đánh lừa quân.
Tháo thấy vậy mật cho người ra đòi Vương Hậu vào bảo rằng:
- Nay ta muốn mượn ngươi một cái, để dẹp yên lòng quân, ngươi đừng nên tiếc.
Hậu hỏi:
- Thừa tướng muốn dùng cái gì?
Tháo nói:
- Ta muốn mượn cái đầu của ngươi để dẹp bụng oán của ba quân.
Hậu thất kinh, kêu oan. Tháo lại nói:
- Ta cũng biết ngươi không có tội, nhưng không giết ngươi thì bụng chúng sinh biến mất, thôi thì ngươi chịu chết vậy, để vợ con, ta nuôi cho, ngươi đừng lo gì cả.
Vương Hậu muốn nói nữa, nhưng Tháo đã gọi ngay đao phủ vào lôi Hậu ra ngoài cửa chém rồi bêu đầu lên một cái sào dài, yết thị rằng: "Vương Hậu cố làm đấu nhỏ, để hà lạm lương vua, nay đem chính pháp".
Thấy vậy quân sĩ không oán gì nữa. Sau đó Tháo phủ dụ quân sĩ ra sức công thành và lệnh rằng: "Hạn trong ba ngày, hễ không phá được thành thì các tướng phải bị chém cả". Quả nhiên trận ấy Tháo phá thành thắng lợi.
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 18: Giả Văn Hòa Liệu Mưu Quyết Thắng Giặc Hạ Hầu Ðôn Rút Tên Nuốt Con Ngươi


Giả Hủ biết ý Tào Tháo, muốn biến kế Tháo thành kế của mình, bèn bảo Trương Tú rằng:
- Tôi ở trên thành, thấy Tào Tháo đi chung quanh thành xem xét ba hôm nay, hắn thấy gốc Đông Nam màu gạch, đất mới cũ không được đều, hàng rào chông chà đã nát quá nửa, ý hắn muốn đánh vào mặt ấy, nhưng mà giả vờ chứa cỏ rác ở góc Tây Bắc để đánh lừa ta rút quân về giữ Tây Bắc, rồi hắn nhân đêm tối, trèo lên góc Đông Nam tiến quân vào thành.
Trương Tú vội hỏi:
- Thế thì làm thế nào?
Hủ thưa:
- Khó chi việc ấy. Ngày mai nên sai quân tinh tráng ăn cơm no, mặc quần áo chẽn, phục cả trong buồng các trại ở mé Đông Nam, còn dân trong thành thì ăn mặc giả làm lính giữ mặt Tây Bắc. Ðến đêm mặc kệ cho chúng nó trèo vào góc Đông Nam, đợi khi chúng nó vào trong thành rồi, thì bắn một phát pháo hiệu, bao nhiêu quân phục đổ ra, Tháo chạy đi đằng trời.
Tú nghe, dùng kế ấy. Quả thực có quân thám, báo với Tào Tháo rằng: Trương Tú rút cả quân về mặt Tây Bắc, hò reo giữ thành, còn mặt Đông Nam bỏ trống.
Tháo mừng mà reo lên rằng:
- Hắn mắc kế ta rồi!
Liền sai quân sĩ sắp sẵn thuổng cuốc để đào thành vào; ban ngày chỉ đem quân đánh mặt Tây Bắc, đến tối vào độ canh hai mới đem cả tinh binh ra góc Đông Nam, lội qua hào, dọn sạch hành rào chông.
Trong thành vẫn im phăng phắc.
Quân Tháo kéo ùa cả vào, bỗng nghe một tiếng súng nổ, quân phục bốn mặt đổ ra.
Quân Tào vội vàng rút lui.
Trương Tú thúc quân dũng tráng đánh vào.
Quân Tháo thua to.
Tháo ra thành chạy hơn hai mươi dặm.
Tú đánh mãi đến tang tảng sáng mới rút quân về.
Tháo điểm quân mất hơn năm vạn người; xe lương cùng các đồ khí giới mang đi theo mất nhiều lắm; Lã Kiền, Vu Cấm đều bị thương.
Giả Hủ thấy Tháo thua chạy, bảo ngay Trương Tú đưa thư cho Lưu Biểu, sai đem quân ra chẹn đường sau.
Biểu được thư muốn kéo quân đi ngay, chợt có thám mã đến báo rằng:
- Tôn Sách đóng quân ở Hồ Khẩu.
Khoái Lương nói:
- Sách đóng binh ở Hồ Khẩu là mẹo của Tào Tháo đấy. Nay Tào Tháo mới thua, nếu mình không thừa thế đánh ngay, về sau tất rồi sinh lo.
Biểu mới sai Hoàng Tổ giữ vững cửa ải, mình tự đem quân đến huyện An Chúng, chẹn đường Tào Tháo, một mặt giao ước với Trương Tú.
Tú thấy Biểu đã khởi binh, cùng Giả Hủ đem quân đuổi Tào Tháo.
Tào Tháo dẫn quân đi dần dần đến Tương Thành, gần sông Dục Thủy.
Tháo tự dưng ngồi trên ngựa, khóc hu hu lên.
Các tướng ngạc nhiên hỏi vì cớ gì, Tháo nói rằng:
- Ta khóc là vì nhớ năm ngoái đại tướng của ta là Ðiển Vi chết ở chỗ này. Nghĩ đến, ta lại thương mà khóc.
Tháo lau nước mắt rồi truyền lệnh hãy đóng quân mã lại đó, bày một lễ lớn, tế vong hồn Ðiển Vi.
Tháo tự mình thắp hương khóc rồi lễ.
Ba quân ai thấy cũng động lòng.
Tế Ðiển Vi xong rồi, Tháo tế cháu là Tào Dân và con cả là Tào Ngang, rồi lại tế cả những quân lính chết ở đấy năm trước, tế cả đến con ngựa Ðại Uyển cùng chết một trận.
Hôm sau Tuân Úc sai người đến báo rằng:
- Lưu Biểu giúp Trương Tú đóng quân ở An Chúng, định chẹn đường ta.
Tháo trả lời Úc rằng:
- Mỗi ngày ta đi có vài dặm. Không phải là ta không biết có quân giặc đuổi theo sau đâu. Ta đã định đâu vào đấy cả rồi. Nếu đến An Chúng, ta chắc phá được quân Tú. Các ngươi chớ lo.
Nói rồi, giục quân đi au đến đầu huyện An Chúng.
Quân Lưu Biểu đã giữ cả những chốn hiểm yếu, đằng sau thì Trương Tú kéo quân đuổi theo.
Tháo sai quân đêm hôm ấy đào những nơi hiểm mở đường mai phục kỳ binh.
Ðến sớm hôm sau, Lưu Biểu, Trương Tú, hai bên hội quân với nhau, thấy quân Tháo có ít, tưởng Tháo đã đi trốn rồi, kéo quân vào đường hẻm để đánh.
Bấy giờ Tháo mới thả quân phục ra, đánh vỡ tan cả quân hai nhà, rồi ra khỏi cửa huyện An Chúng, hạ trại ở mé ngoài cửa ải đóng quân.
Lưu Biểu, Trương Tú thua, nhặt nhạnh tàn quân rồi cùng bàn với nhau. Biểu nói:
- Không ngờ lại mắc phải kế Tào Tháo!
Tú nói:
- Ðể thong thả ta sẽ liệu.
Hai bên cùng đóng quân ở An Chúng.
Tuân Úc do thám được rằng Viên Thiệu muốn đem quân tiến vào Hứa Ðô, lập tức sai người đem thư cho Tào Tháo.
Tháo thất kinh, ngay hôm ấy rút quân về.
Quân Trương Tú có đứa do thám thấy thế, về báo với Tú. Tú muốn đuổi theo.
Giả Hủ can rằng:
- Không nên đuổi, đuổi tất thua!
Lưu Biểu không nghe, nói rằng:
- Nay không thừa thế đuổi dấn đi, bỏ phí mất cơ hội hay.
Biểu cố khuyên Tú, cùng dẫn một vạn quân đuổi theo.
Ði được mười dặm, đuổi kịp hậu quân Tào Tháo.
Quân Tào cố sức đánh lại. Bỉểu, Tú thua to chạy về.
Tú than với Hủ rằng:
- Tại tôi không nghe lời ông, quả nhiên thua thật.
Giả Hủ cười bảo rằng:
- Bây giờ hai ông nên thu quân lại mà đuổi.
Biểu và Tú nói:
- Vừa thua xong, lại còn đuổi làm gì nữa?
Hủ nói:
- Hai ông cứ đuổi đi. Phen này chắc hẳn là được. Hễ thua cứ chặt đầu tôi đi.
Tú tin lời Hủ, Biểu còn nghi hoặc, không chịu đi.
Tú dẫn quân một mình đi đuổi.
Quân Tháo quả nhiên thua to. Xe ngựa lương thảo bỏ đầy cả ra đường mà chạy.
Tú đương đuổi, sau núi bỗng có một cánh quân kéo ra, không dám đuổi nữa, thu quân về An Chúng.
Lưu Biểu thấy Tú được trận về, mới hỏi Giả Hủ:
- Trước đem quân thắng đuổi quân thua ông bảo rằng tất thua; sau đem quân thua đuổi đánh quân thắng, ông lại bảo tất được. Trước sau đều như lời ông cả. Sau cùng hai việc ông nói hai cách đều nghiệm cả, xin ông giảng cho tôi nghe.
Hủ thưa:
- Việc ấy dễ hiểu! Tướng quân dẫu biết dùng binh, nhưng không phải là tay địch nổi với Tào Tháo. Tào Tháo thua chạy tất nhiên phải để những tướng giỏi đi sau để phòng quân đuổi, quân ta dù giỏi cũng không địch nổi, bởi vậy tôi biết tất là thua. Tháo sở dĩ vội lui quân, chắc vì Hứa Ðô có việc, khi đã đánh được quân ta, tất nhiên xe nhẹ đi nhanh không phòng bị gì nữa, ta nhân lúc Tháo không phòng bị mà đuổi, chắc là được.
Lưu Biểu, Trương Tú đều phục là cao kiến.
Hủ lại khuyên Biểu về Kinh Châu và Tú giữ lấy Tương Thành để giúp đỡ lẫn nhau. Hai bên đều thu quân về.
Ðây nói lúc Tào Tháo đang đi nghe thấy báo:
- Hậu quân bị Trương Tú đuổi đánh.
Tháo liền đem các tướng lại cứu, đã thấy quân Trương Tú rút về rồi, bấy giờ đám hậu quân thua lại bẩm với Tháo rằng:
- Cũng may ở sau núi có toán quân ra chẹn đường, nếu không thì bị bắt hết cả.
Tháo vội hỏi:
- Người nào thế?
Một tướng vác giáo, xuống ngựa vào bái kiến Tào Tháo, thì là Trấn Oai Trung Lang tướng, người ở Giang Hạ, họ Lý tên Thông, tự là Văn Ðạt.
Tháo hỏi:
- Anh ở đâu đến?
Thông nói:
- Gần đây tôi giữ Nhữ Nam. Nghe tin Thừa Tướng đánh nhau với Trương Tú, Lưu Biểu, nên tôi đến để tiếp ứng.
Tháo mừng, phong cho Thông làm Kiến Công Hầu, sai giữ mé Tây đất Nhữ Nam để phòng Biểu, Tú.
Thông lạy tạ rồi đi.
Tháo về Hứa Ðô, dâng biểu tâu Tôn Sách có công, xin phong làm Thảo Nghịch tướng quân, tước Ngô Hầu, sai sứ cầm chiếu đến Giang Ðông, sai phải phòng đánh Lưu Biểu.
Tháo về phủ. Các quan đều đến chào mừng xong cả rồi, Tuân Úc mới hỏi rằng:
- Thừa Tướng đi thong thả đến An Chúng. Sao biết rằng tất phá được giặc?
Tháo nói:
- Quân đi không có đường về, tất sống chết cũng phải cố đánh. Ta đi thong thả là để dử đằng kia hắn đến, vả ta đã có quân phục chỉ chực để đánh. Thế thì làm gì mà không chắc được!
Tuân Úc bái phục.
Bấy giờ Quách Gia mới vào.
Tháo hỏi:
- Sao ông lại chậm thế?
Gia sờ vào trong tay áo lấy ra một phong thư, đưa cho Tào Tháo thưa rằng:
- Viên Thiệu sai người đưa thư cho Thừa Tướng, nói rằng muốn đem quân đánh Công Tôn Toản, đến mượn binh lương.
Tháo nói:
- Ta nghe Thiệu muốn dòm Hứa Ðô, nay thấy ta về, nên mới xoay ra cách khác.
Nói rồi mở thư ra xem. Thấy lời lẽ kiêu ngạo, Tháo hỏi Gia rằng:
- Viên Thiệu láo. Ta muốn sang đánh, ngặt vì sức ta không nổi, nên làm thế nào?
Quách Gia thưa:
- Họ Lưu không địch được họ Hạng, ông cũng đã biết, thế mà Hạng Vũ sau bị bắt là vì Cao Tổ có nhiều mưu trí. Nay Viên Thiệu có mười điều thua, còn ông có mười điều được, do đấy quân Thiệu tuy mạnh, nhưng không đáng sợ.
Tính Thiệu hay vẽ vời nghi lễ. Ông thì dễ dãi tự nhiên, thế là được về đạo.
Thiệu hành động trái lẽ. Ông thuận lẽ phải, thế là được về nghĩa.
Từ đời Hoàn, Linh đến giờ, triều chính đổ nát vì quá khoan rộng.
Nay Thiệu khoan quá, mà ông thì nghiêm để đưa vào quy củ, thế là được về chính trị.
Viên Thiệu ngoài khoan hòa, mà trong nghi kỵ, lại dùng toàn những người thân thích. Ông thì ngoài giản dị, trong sáng suốt, dùng người toàn là nhân tài, thế là được về độ lượng.
Thiệu nhiều mưu mà ít quyết đoán. Ông được mưu hay là làm ngay, thế là được về mưu lược.
Thiệu hiếu danh. Ông thì lấy bụng thực đãi người, thế là được về đức.
Thiệu nghĩ chỗ gần, quên chỗ xa. Ông thì nghĩ đâu cũng khắp, thế là được về nhân.
Thiệu hay nghe gièm pha, ngờ vực người. Ông thì không tin những đứa sàm nịnh, thế là được về sự sáng suốt.
Thiệu phải trái hồ đồ. Ông thì phép tắc phân minh, thế là được về văn.
Thiệu thích hư trương thanh thế, nhưng không biết cách dùng binh. Ông thì lấy ít đánh được nhiều, dùng binh như thần, thế là được về võ.
Ông có mười điều được ấy, đánh thắng Thiệu có khó gì.
Tháo cười nói rằng:
- Ông nói thế! Tôi sau có đủ được mười điều ấy.
Tuân Úc nói:
- Quách Phụng Hiếu kể mười điều được của ông và mười điều thua của Viên Thiệu, quả là hợp ý tôi lắm. Quân Thiệu dù nhiều cũng không đáng sợ.
Gia lại nói:
- Nay tôi xin lại hiến một kế: Lữ Bố ở Từ Châu là một mối lo trong lòng. Nay Thiệu lên mặt Bắc để đánh Công Tôn Toản. Ta nhân hắn đi xa hãy đánh Lữ Bố trước, quét sạch cõi Đông Nam đã, rồi sẽ đánh Viên Thiệu sau. Thế là hơn cả. Nếu ta đang đánh Viên Thiệu. Lữ Bố thừa cơ xâm phạm Hứa Ðô, thì lại hại to.
Tào Tháo cho là phải, bèn bàn việc kéo quân sang Đông đánh Lữ Bố.
Tuân Úc nói:
- Hãy sai người sang hẹn với Lưu Bị, đợi xem về báo thế nào, bấy giờ ta sẽ khởi binh.
Tháo nghe lời, một mặt đưa thư cho Lưu Bị, một mặt hậu đãi sứ Viên Thiệu, tâu cho Thiệu làm Đại Tướng Quân Thái Úy, và Đô Đốc cả bốn châu: Ký, Thanh, U, Tĩnh, lại đưa mật thư nói rằng: ông cứ sang đánh Công Tôn Toản, tôi sẽ giúp ông.
Thiệu được thư mừng lắm, liền sai tiến quân đánh Công Tôn Toản.
- Từ Châu, mỗi lần yến hội tân khách, cha con Trần Khuê cực lực ca tụng Lữ Bố.
Trần Cung không bằng lòng, nhân lúc vắng nói với Lữ Bố rằng:
- Cha con Trần Khuê ngoài mặt nịnh tướng quân, nhưng thâm hiểm khó lường được. Tướng quân phải giữ gìn cho khéo.
Bố giận mắng rằng:
- Ngươi vô cớ gièm pha, muốn hại người tốt hay sao?
Cung trở lui ra than rằng:
- Lời trung chẳng nghe. Lũ ta sẽ mắc nạn cả.
Cung muốn bỏ Lữ Bố đi nơi khác, nhưng không nỡ, lại sợ người ta chê cười, cả ngày buồn rầu, không vui.
Một hôm Cung đem vài mươi quân kỵ đi săn ở Tiểu Bái để giải trí, chợt gặp trên đường cái quan một người cưỡi ngựa trạm phóng ngựa lên trước.
Cung có bụng nghi, bỏ ngay vây săn, đem quân chạy đường tắt đuổi kịp, hỏi rằng:
- Ngươi là sứ giả của ai?
Người cưỡi ngựa biết Cung là bộ hạ Lữ Bố, sợ lúng túng không nói được.
Cung sai khám trong mình, bắt được một phong mật thư của Lưu Bị trả lời Tào Tháo.
Cung lập tức lôi cả người lẫn thư lại trình Lữ Bố, Bố hỏi người mang thư, người mang thư thưa: Tào thừa tướng sai tôi mang thư đưa đến Lưu Dự Châu, nay được thư trả lời, tôi không biết trong thư nói gì.
Bố mở thư ra xem, thư nói rằng:
- Tôi vâng lời minh công, muốn trừ Lữ Bố, ngày đêm vẫn phải lưu tâm. Ngặt tôi binh mọn tướng ít chưa dám khinh động. Nếu Thừa Tướng cất quân sang đánh tôi xin làm tiền khu. Nay xin sắp binh sửa giáp để đợi mệnh ngài.
Lữ Bố xem xong giận lắm, liền sai đem chém sứ giả, rồi sai Trần Cung, Tang Bá kết liên với giặc Thái Sơn là Tôn Quan, Ngô Ðôn, Doãn Lễ và Xương Hi, sang phía Đông đánh các quận Sơn Ðông, Duyện Châu.
Bố sai Cao Thuận, Trương Liêu đánh Bái Thành, bắt Lưu Bị; sai Tống Hiến, Ngụy Tục sang phía tây đánh Nhữ Nam, Dĩnh Xuyên; Bố thì thống lĩnh trung quân để cứu ứng ba mặt.
Cao Thuận dẫn quân từ Từ Châu sắp đến Tiểu Bái, có người vào báo với Lưu Bị.
Lưu Bị họp ngay các quan lại bàn.
Tôn Càn nói:
- Trước hết nên cáo cấp ngay với Tào Tháo đã.
Lưu Bị hỏi:
- Ai sang Hứa Ðô bây giờ?
- Dưới thềm có một người bước ra xin đi, hỏi ra thì là người cùng làng với Lưu Bị, tên là Giản Ung, tự là Hiến Hòa, hiện đương làm Mạc Tân.
Huyền Ðức lập tức viết thư giao cho Ung, sai phải cấp tốc đi au đến Hứa Ðô cấp cứu.
Một mặt chuẩn bị khí cụ giữ thành. Lưu Bị giữ cửa Nam, Tôn Càn giữ cửa Tây, Quan Công giữ cửa Bắc, Trương Phi giữ cửa Đông; lại sai My Chúc và em là My Phương giữ trung quân.
Nguyên My Chúc có em gái gả cho Lưu Bị làm vợ thứ, bởi thế Lưu Bị mới sai giữ ở trung quân để trông nom vợ con.
Khi quân Cao Thuận đến, Huyền Ðức đứng trên địch lâu hỏi rằng:
- Ta cùng Phụng Tiên không hiềm khích gì, cớ sao dẫn quân đến đây?
Thuận nói:
- Ngươi kết liên với Tào Tháo, quyết hại chủ ta, nay việc đã tiết lộ, sao không chịu trói ngay!
Thuận nói xong vẫy quân vào thành, Huyền Ðức đóng cửa không ra.
Hôm sau Trương Liêu dẫn quân đánh cửa Bắc.
Quan Công đứng ở trên thành bảo Trương Liêu rằng:
- Tôi trông ông nghi biểu cũng không phải người thường, sao lại khuất thân theo giặc?
Trương Liêu nghe nói, cúi đầu xuống, chẳng nói gì cả.
Vân Trường biết rằng người ấy có khí trung nghĩa, không nỡ nói quá, và cũng không ra đánh.
Liêu dẫn quân lui đến cửa Đông.
Trương Phi ra đánh.
Có người báo với Quan Công, Quan Công vội vàng ra cửa Đông xem thì thấy Trương Phi vừa ra thành thì Trương Liêu đã lui quân.
Phi muốn đuổi theo, Quan Công gọi lại bảo vào thành.
Phi nói:
- Hắn sợ mà chạy làm sao không đuổi?
Quan Công nói:
- Võ nghệ người ấy chẳng kém gì hai anh em ta đâu. Vì anh đã lấy lời phải bảo y, nên y có bụng hối không đánh nhau với ta đó.
Phi từ ấy không ra đánh nữa chỉ sai quân sĩ cố giữ lấy thành.
Giản Ung đến Hứa Ðô, vào ra mắt Tào Tháo, kể hết đầu đuôi.
Tháo họp mưu sĩ lại để bàn, nói rằng:
- Nay ta muốn sang đánh Lữ Bố, chẳng lo gì Viên Thiệu chẹn nách, nhưng chỉ sợ Lưu Biểu với Trương Tú chúng chực ở đằng sau đánh tập hậu.
Tuân Du nói:
- Hai người ấy mới thua, chưa dám khinh động. Lữ Bố kiêu dũng lắm, nếu để cho hắn kết liên được với Viên Thuật, tung hoành bên vùng Hoài, Từ thì khó lòng trừ được.
Quách Gia nói:
- Nay nhân hắn mới làm phản, bụng quân chưa ai phục, ta nên đánh ngay đi.
Tháo lập tức sai Hạ Hầu Ðôn, Hạ Hầu Uyên, Lã Kiền lĩnh năm vạn quân đi trước. Tự mình thống đại quân lần lượt kéo đi sau.
Giản Ung cũng theo về.
Có thám mã báo với Cao Thuận.
Thuận báo vớ Lữ Bố.
Hầu Thành, Hách Manh, Tào Tính dẫn hơn ba trăm quân kỵ tiếp ứng.
Cao Thuận, sai ra đón Tháo ngoài Bái Thành ba mươi dặm.
Lữ Bố tự dẫn đại quân đến tiếp ứng sau.
Lưu Bị ở trong thành Tiểu Bái thấy Cao Thuận lui quân, biết rằng quân Tào đã đến, chỉ để Tôn Càn giữ thành; My Chúc, My Phương giữ nhà, mình thì đem Quan, Trương ra ngoài thành, chia đường đóng trại, tiếp ứng Tào Tháo.
Hạ Hầu Ðôn dẫn quân đi lên, vừa gặp ngay Cao Thuận kéo quân đến, lập tức vác giáo cưỡi ngựa ra thách đánh.
Cao Thuận lại địch.
Hai bên đánh nhau bốn năm mươi hiệp.
Cao Thuận chống đỡ không nổi, thua chạy về trận.
Ðôn tế ngựa đuổi theo.
Thuận chạy vòng quanh trận.
Ðôn không tha cũng chạy vòng quanh đuổi.
Tào Tín đứng trong trận trông thấy hai người đuổi nhau ngầm giương cung đặt tên, nhìn thực đích xác, bắn một phát trúng ngay mắt bên tả Hạ Hầu Ðôn.
Ðôn kêu to một tiếng, lấy tay rút mũi tên ra, không ngờ cả con ngươi cũng bật ra. Ðôn nói rằng: Tình cha huyết mẹ không nên bỏ, rồi đút con ngươi vào mồm nuốt chửng, lại cầm giáo tế ngựa xông vào đánh Tào Tín.
Tín chưa kịp đề phòng bị Ðôn đến đâm một nhát vào giữa mặt, chết ngã quay xuống.
Quân sĩ hai bên trông thấy ai cũng khiếp đảm.
Ðôn giết được Tín rồi quay ngựa về.
Cao Thuận tự đằng sau đuổi lại vẫy quân kéo ùa cả lên.
Quân bên Tào thua.
Hạ Hầu Uyên hộ vệ anh chạy thoát.
Lã Kiền, Lý Ðiển rút bại quân về Tế Bắc đóng trại.
Cao Thuận được trận ấy rồi quay về đánh Lưu Bị.
Giữa lúc ấy đại quân Lữ Bố cũng đến.
Bố cùng Trương Liêu, Cao Thuận chia quân làm ba đường tiến đánh...
Thế mới biết rằng:
Mãnh tướng nuốt ngươi tuy đánh giỏi,
Tiên phong trúng đạn khó lâu bền?
Chưa biết Huyền Ðức chuyến này ra làm sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 19: Ðánh Hạ Bì, Tào Tháo Dùng Kế, Lầu Bạch Môn, Lữ Bố Vong Thân


Lữ Bố cử Trương Liêu, Cao Thuận đi đánh Vân Trường, còn Lữ Bố địch với Trương Phi, Huyền Ðức thì trợ chiến cho hai em . Lữ Bố đánh thốc hai mũí dùi, Quan Trương phải né tránh Huyền Ðức chạy về
Bái Thành, Lữ Bố rượt theo. Cửa thành vội mở đón Huyền Ðức, nào ngờ Lữ Bố dẫn quân như bay xông thẳng vào thành. Huyền Ðức vội chạy ra cửa Tây, bỏ cả vợ con gia quyến.
Lữ Bố ra lệnh chiêu an.
Mê Trước nói :
- Việc này do Tào Tháo chứ không phải Huyền Ðức.
Lữ Bố trả lời :
- Ừ, ta với Huyền Ðức là chỗ bạn cũ , sao nỡ làm hại gia quyến nguời . Nói rồi cho đưa gia quyến Huyền Ðức về Từ Châu. Lại khiến Trương Liêu, Cao Thuận ở lại giử Tiểu Bái, còn mình thì qua Diễn Châu và San Ðông.
Lúc này , Quan Trương phải vào núi mà ẩn. Còn Huyền Ðức đang chạy nghe một người kêu, té ra Tôn Càng.
Tôn Càng khuyên về đầu Tào Tháo.
Huyền Ðức y theo và lên đường ngay. Dọc đường đói khát, được dân chúng đem lễ vật đãi đằng.
Ít lâu sau, thấy trước mặt bụi bay mù trời. Té ra là quân của Tào Tháo.
Huyền Ðức dắt Tôn Càng vào ra mắt, được Tào Tháo ân cần đón nhận.
Khi binh Tào đến Tế Bắc thì có Hạ Hầu Huyên nghinh đón , Huyên kể việc Hạ Hầu Ðôn bị tên trúng mắt hiện còn nằm dưỡng bệnh.
Tào Tháo cho đưa Ðôn về Hứa đô. Mặt khác sai quân đi dò tin, được biết Lữ Bố cùng Trần Cung , Tang Bá đang hoành hành ở Diễn Châu.
Tháo liền sai Tào Nhơn đánh mặt Tiểu Bái còn Huyền Ðức cùng mình hiệp nhau đi đánh Lữ Bố.
Dọc đường, Tháo đánh tan đạo quân ăn cướp ở núi Thái San.
Lữ Bố lúc này đă về Từ Châu hay tin liền cùng Trần Ðăng đi đánh Tiểu Bái, sai Trần Khuê ở lại giữ Từ Châu.
Khuê dặn rằng :
- Nên nhớ việc Tào Công ủy thác .
Ðăng nói :
- Việc bên ngoài xin cứ mặc con, chừng nào Lữ Bố chạy về thì cha đừng cho hắn vào, con đã có kế.
Sau đó Trần Ðăng vào nói với Lữ Bố :
- Từ Châu nay bốn mặt đều thọ địch. Vậy nên dời bớt lương về Hạ Bì.
Bố khen phải và cho luôn gia quyến sang Hạ Bì để an tâm hơn.
Sau đó Bố cùng Trần Ðăng đi cứu Tiểu Quang.
Nửa đường, Trần Ðăng xin đi trước để dò động tĩnh.
Tới Tiểu Quang, Trần Cung rước Ðăng vào, Ðăng nói dối :
- Ôn Hầu trách các ông sao không tiến tới mà chỉ cố thủ. Thế nào các ông cũng bị quở đó .
Trần Cung nói :
- Tôi thấy binh Tào đang mạnh, nhờ ông thưa lại Chúa Công chỉ nên cố thủ mà thôi .
Trần Ðăng giả vờ gật đầu. Sau đó, Ðăng lên mặt thành nghe ngóng, thấy binh Tào đã tới, bèn bắn xuống một mũi tên có mang theo bức mật thư.
Hôm sau, Ðăng từ giả Trần Cung về thưa với Lữ Bố :
- Chúa Công nên mang binh gấp tới tiếp ứng Trần Cung .
Bố gật đầu và dặn khi cần, Trần Cung hãy nổi hỏa lên làm hiệu.
Sau đó Ðăng lại tới bảo Trần Cung :
- Từ Châu đang nguy khốn, ông phải mau về cứu .
Cung liền dẫn quân đi ngay, Trần Ðăng liền nổi hỏa làm hiệu. Ðêm ấy vì tối trời hai đạo binh Trần Cung và Lữ Bố lầm tưởng nhau là địch, đánh nhau chết hại vô số. Sau đó hai người nhận ra nhau, mới biết đều mắc mưu Trần Ðăng cả, liền kéo đi Từ Châu.
Ðến cửa thành thì tên ở trên bắn xuống.
Mê Trước nói xuống :
- Mi đoạt thành của ta thì nay phải trả, đừng vô nữa.
Bố liền cùng Trần Cung định sang Tiểu Bái thì nửa đường đã gặp Trương Liêu và Cao Thuận cũng kéo binh về.
Thì ra Trương Liêu bị Trần Ðăng gạt bảo Lữ Bố bị vây ở Từ Châu nên kéo quân đi cứu.
Lữ Bố hét lên như sấm, thề giết Trần Ðăng mới thôi.
Sau chót lại kéo quân đi Tiểu Bái cũng đã thấy phất phới lá cờ Tào Tháo rồi.
Lữ Bố chửi mắng Trần Ðăng, Ðăng ở trên đáp :
- Ta là tôi nhà Hớn, đâu là tôi của mi .
Lữ Bố xông tới đánh thành, gặp Trương Phi.
Cao Thuận ra địch với Trương Phi, không lại, Lữ Bố ra tiếp tay thì bốn phía lại có binh Tào đổ đến.
Lữ Bố chạy về hướng Ðông, binh Tào đuổi theo.
Bỗng có một tướng ra chặn đường. Thì ra là Vân Trường.
Ðàng sau thì Trương Phi sắp tới, Lữ Bố không dám đánh, chạy gấp về Hạ Bì.
Hầu Thành ra tiếp đón, rước vào thành.
Nói về Quan Công và Trương Phi dắt nhau về ra mắt Huyền Ðức, ba anh em mừng mừng tủi tủi. Xảy có Mê Trước báo tin cho Huyền Ðức biết cả gia quyến vẫn được bình an. Kế đó, cha con Trần Khuê vào ra mắt Tào Tháo, Tháo truyền mở tiệc khao thưởng hết mọi người.
Sau đó kéo đi đánh Hạ Bì.
Trình Dục thưa :
- Nay Lữ Bố chỉ còn một Hạ Bì này nếu áp bức y lắm, y về với Viên Thuật thì thành một hậu họa. Vả chăng bọn Tang Bá, Tôn Quang ở San Ðông cũng chưa bình định được. Vậy thì phải cử một tướng giỏi ngăn chận ở đường tắt Hoài Nam khiến Lữ Bố không tiếp xúc với Viên Thuật mới được .
Tháo liền nhờ Huyền Ðức đi ngăn chận đường Hoài Nam.
Huyền Ðức để Mê Truớc và Giảng Ung ở lại Từ Châu, còn mình với Quan, Trương và Tôn Càng kéo quân ra đi.
Chính Tào Tháo kéo đại binh đi đánh Hạ Bì.
Lữ Bố ở Hạ Bì thấy lương thực đầy đủ, lại có sông Vị Thủy hiểm trở thì an lòng cố thủ.
Trần Cung bảo :
- Quân Tào mới đến, nên nhân cơ hội dánh ột trận .
Bố nói :
- Quân ta vừa thua, nên cho dưỡng sức. Chờ binh nó kéo đến đây, ta đánh cũng không muộn. Vả lại chúng khó mà qua được sông Vị Thủy.
Khi Tào Tháo lập trại xong, liền cho quân tới trước thành nhiếc mắng.
Trần Cung lúc đó đứng cạnh Lữ Bố nói rằng :
- Thằng Tào Tháo này quả là đứa gian hùng . Nói rồi bắn một mũi tên, trúng ngay vào cây lọng vàng che đầu Tào Tháo. Tháo tức lắm, truyền đánh thành gấp .
Trần Cung khuyên Lữ Bố rằng binh Tào ở lâu thì thế nào cũng hết lương, vậy Bố nên mang quân ra một nơi ngoài thành, còn trong thành cứ mặc Trần Cung giữ.
Tháo đánh thành thì Lữ Bố đánh bọc hậu, như vậy làm sao mà Tháo lấy được thành.
Lữ Bố khen kế rất hay. Nói rồi sắp sửa ra đi.
Vợ là Nghiêm thị hỏi :
- Chẳng hay phu quân đi đâu ?
Bố đem mưu kế cua Trần Cung ra nói, Nghiêm thị buồn rầu đáp :
- Rủi thành có bề gì thì thiếp biết trông cậy vào ai .
Lữ Bố lại dùng dằng trong khi Trần Cung giục đi gấp vì nghe tin Tào Tháo sắp hết lương mà chặn đường lương, thì thế nào Tháo cũng thua.
Lữ Bố vào nói chuyện với Ðiêu Thuyền thì Ðiêu Thuyền cũng nói như Nghiệm Thị, âu cũng là số Lữ Bố sắp hết vậy. Từ đó Bố không đi đâu nữa, cứ cả ngày uống rượu với thê cùng thiếp.
Trần Cung thấy vậy than rằng :
- Tụi này đến chết không có đất mà chôn .
Hứa Tỵ vào thưa với Lữ Bố :
- Xưa kia Tướng Quân còn lời hứa làm suôi với Viên Thuật. Nay nên nhờ Viên Thuật đánh bọc hậu mà
giải nguy .
Bố liền viết thư cho Hứa Tỵ mang đi. Lại sai Trương Liêu và Hích Mạnh dẫn binh để đưa đường.
Ðêm ấy, thoát ra khỏi trại Huyền Ðức.
Huyền Ðức khi hay tin thì đã muộn, Hích Mạnh thì đi theo bảo hộ Hứa Tỵ còn Trương Liêu thì quay về thành, chợt gặp Vân Trường.
Hai bên chưa kịp giao phong thì Cao Thuận xông ra đưa Trương Liêu vào thành.
Còn Hứa Tỵ khi đến Thọ Xuân, ra mắt Viên Thuật mà đưa thư.
Viên Thuật xem rồi bảo :
- Ngày trước Lữ Bố giết sứ tuyệt tình suôi gia, nay còn biên thư làm gì ?
Hứa Tỵ thưa :
- Phụng Tiên trước chót nghe lầm đứa nịnh, nay thật lòng ăn năn .
Thuật lại nói :
- Nếu không chịu binh Tào vây, đời nào Bố gả con gái cho con ta . Sau khi suy nghĩ hồi lâu Viên Thuật quyết định :
- Muốn ta đem binh đi cứu thì hãy đưa con gái của y đến đây trước đã.
Hứa Tỵ đành mang lời nói ấy trở về.
Lữ Bố nói :
- Làm sao mà đưa đi được bây giờ ?
Hứa Ty nói :
- Vừa rồi quân Tào bắt được Hích Mạnh, mưu cơ của mình đã lộ . Vậy phi Tướng Quân thì chẳng ai mang nổi tiểu thư đi. Bố nghe theo, sai quân dọn sẵn một chiếc tiểu xa, rồi dặn Trương Liêu cùng Cao Thuận đi theo hộ tống. Sang canh hai, Lữ Bố kêu con gái ta, lấy lụa nịt kỹ quanh mình, lấy giáp che ở phía ngoài rồi đai con ở sau lưng, cầm kích lên ngựa. Cả đoàn ra khỏi thành, tức thì tiếng pháo nổ vang, Quan Công , Trương Phi cùng xông ra kêu :
- Lữ Bố chớ chạy .
Lữ Bố chỉ mong tìm đường mà đi thì Huyền Ðức cũng lại dẫn binh kéo tới.
Lữ Bố tuy sức mạnh vô địch nhưng sợ con bị thương nên không dám xông pha. Lúc đó lại thêm Hứa Chữ , Từ Quang ầm ầm kéo tới .
Lữ Bố đành phải rút vào thành. Từ đó, Lữ Bố càng thêm buồn bực, cả ngày chỉ uống rượu làm khuây.
Tào Tháo đánh mãi Hạ Bì mà không được, chợt nghe tin Thái Thú Hà Nội là Trương Dương muốn đem binh đi cứu Lữ Bố nhưng bị phó tướng là Dương Vu giết đi.
Sau đó Tào Tháo bàn vói các tướng :
- Nay Bắc có Viên Thiệu, Ðông có Lưu Biểu, Trương Tú , thành Hạ Bì vây mãi không ăn thua, ý ta muốn lui về Hứa đô, phỏng có nên chăng ?
Quách Gia hiến kế :
- Ngăn nước con sông Nghi, con sông Tú, thế nào cũng xong .
Tào Tháo cả mừng, khiến quân ngăn ngay nước hai con sông ấy, rồi dắt các tướng lên chỗ cao xem nước chảy đổ vào thành Hạ Bì .
Chẳng bao lâu, chỉ còn cửa Ðông thành là khô ráo, ba cửa kia ngập hết.
Quân vào báo Lữ Bố nói :
- Ta có ngựa Xích Thố , chạy được trên nước lo gì. Nói rồi lại uống rượu.
Ngày kia chợt soi gương thấy mình vì tửu sắc mà gầy guộc bèn ra lệnh cấm rượu, hễ ai uống thì chém đầu .
Trong lúc ấy có Hầu Thành mất một số ngựa nay tìm lại được mừng lắm, đặt một ít ruợu để ăn mừng. Nhưng sợ Lữ Bố nên Hầu Thành cầm một bình ruợu đến dâng Lữ Bố mà rằng :
- Tôi mừng tìm được ngựa, muốn đặt chút ruợu để mừng nhưng sợ có lệnh của Tướng Công nên mang bình rượu này tới để xin phép.
Lữ Bố cả giận truyền quân mang ra ehém. Các tướng đổ xô lại ngăn cản, Lữ Bố mới thôi, nhưng bắt Hầu Thành chịu một trăm roi. Quân lính thấy vậy lại càng chán nản.
Ngụy Thục nói :
- Nuớc ngập châu thành, bọn ta không biết sống chết thế nào mà sao Lữ Bố cứ điềm nhiên như không. Tống Hiến nói :
- Tôi muốn bỏ thành mà đi, anh thì sao ?
Ngụy Thục nói :
- Chi bằng ta nên qua đầu Tào Công là hơn .
Hầu Thành nói :
- Hai ông có ý dâng thành đầu Tào Công thì phần tôi ăn trộm con ngựa Xích Thố.
Thương nghị xong, đêm ấy Hầu Thành dắt ngựa Xích Thố đi về hướng Ðông, Ngụy Thục mở cửa cho đi. Hầu Thành mang ngựa sang dâng Tào Tháo và nói ý Ngụy Thục ,Tống Hiến muốn dâng thành và sẽ dựng cờ trắng làm hiệu, Tào Tháo mừng lắm, đốc quân phá thành.
Lữ Bố tìm ngựa thì ngựa đă bị mất, liền xách kích đi bốn mặt thành chống giữ, tới tối binh Tào mới lui.
Lữ Bố trong mình đã mệt, liền lên lầu thiu thiu ngủ.
Tống Hiến liền ăn cắp cây kích trước, chờ Lữ Bố ngủ say lấy dây cột luôn Lữ Bố vào ghế.
Lữ Bố thức dậy, kên tả hữu, nhưng chẳng có ai.
Trên thành cờ trắng dựng lên, binh Tào ùa vào như nước.
Tống Hiến quăng cây kích của Lữ Bố xuống làm tin.
Trương Liệu, Cao Thuận , Trần Cung đều bị bắt.
Tào Tháo, Huyền Ðức vào thành, lên ngồi trên lầu Bạch Môn.
Các nguời bị bắt được đưa tới.
Lữ Bố tuy mạnh, nhưng kêu lên :
- Trói chặt quá, xin nới bớt .
Tào Tháo đáp :
- Trói hùm phải trói cho chặc chớ .
Bố nhìn thấy bọn Tống Hiến đứng gần đấy , liền bảo :
- Ta đãi không bạc, sao nỡ phản ta ?
Tống Hiến đáp :
- Chẳng nghe lời tướng sĩ, chỉ nghe vợ con, không bạc là gì ?
Khi dẫn Cao Thuận tới, Tào Tháo hỏi han, Thuận không thèm đáp, tức thời bị chém.
Trần Cung bị dẫn đến .
Tào Tháo hỏi :
- Lâu nay Công Ðài có mạnh giỏi không ?
Trần Cung bảo :
- Ngươi thật là kẻ tâm thuật xảo trá nên ta mới bỏ ngươi đó .
Tào Tháo lại hỏi :
- Thế Lữ Bố thì sao ?
Cung đáp :
- Bố vô mưu nhưng không quỉ trá như ngươi đâu .
Tào Tháo lại hỏi :
- Bây giờ ông tính sao đây ?
Trần Cung hét lớn :
- Chỉ còn cái chết, sao cứ hỏi mãi ?
Tháo lại nói :
- Ông chết đã đành, nhưng vợ con ông tính sao ?
Trần Cung đáp :
- Lấy hiếu trị thiên hạ thì không giết mẹ người. Lấy nhân trị thiên hạ thì không giết vợ con người. Ðó là việc của ngươi , tùy ngươi đối xử . Nói xong Trần Cung đi thẳng tới pháp trường.
Tào Tháo làm bộ đi theo, rồi than van, rồi khóc lóc, lại nói to với quân sĩ :
- Các ngươi phải đem gia quyến Công Ðài về Hứa đô mà cấp duỡng .
Trần Cung cũng chẳng quay lại, đi thẳng tới chổ chịu chém.
Ai nấy đều sa nước mắt, Tào Tháo truyền phải khâm liệm tử tế.
Trong khi Tào Tháo theo tiễn Trần Cung thì Lữ Bố nói vói Huyền Ðức :
- Sao ông chẳng một lời nói giúp nhau .
Huyền Ðức gật đầu .
Khi Tào Tháo trở lại, Lữ Bố nói :
- Tha cho tôi ông làm chánh, tôi làm phó thì định thiên hạ có khó gì.
Tào Tháo quay lại hỏi ý kiến Huyền Ðức.
Huyền Ðức nói :
- Ngài có còn nhớ chuyện Ðinh Kiển Dương và Ðổng Trác không ?
Lữ Bố hét lên :
- Thằng kia thật chẳng có tín nghĩa gì hết !
Tháo sai quân mang Lữ Bố đi.
Lữ Bố còn nói to :
- Thằng tai lớn kia, mi quên chuyện bắn kích nơi viên môn rồi sao ?
Xẩy có người nói lớn :
- Chết thì chịu chết còn nói làm gì ?
Ðó là Trương Liêu .
Ngoài kia , Lữ Bố đã bị quân sĩ thắt cổ chết , rồi đem bêu đầu .
Tào Tháo hỏi Trương Liêu :
- Ai đó như quen mặt ?
Trương Liêu đáp :
- Phải ở Bộc Dương , ta tiếc rằng lửa chưa thiêu chết tên gian hùng như mi .
Tào Tháo rút gươm ra toan chém.
30-07-2016
Avatar Duy_Doanh [ON]
Cấp bậc: admin

Chương 20: Tào Tháo Ra Săn Ruộng Hứa Ðiền Ðổng Thừa Vâng Chiếu Trong Nội Các


Nhắc lại, Tào Tháo rút kiếm toan chém Trương Liêu thì Huyền Ðức nắm tay kéo lại, còn Vân Trường quỳ trước mặt khuyên can.
Huyền Ðức nói:
- Người này có một tấm lòng son sắt, rất nên lưu dụng.
Vân Trường lại nói:
- Tôi vốn biết Văn Viễn là người trung nghĩa, nên tôi nguyện đem tánh mạng ra để bảo đảm.
Tào Tháo vứt ngay kiếm xuống đất, cười ha hả nói:
- Ta cũng biết Văn Viễn là người trung nghĩa, nên đùa chơi đấy thôi!
Rồi liền tự tay cởi trói và cởi áo mình mặc cho Trương Liêu, lại mời ngồi trên.
Trương Liêu cảm vì mỹ ý nên chịu đầu hàng.
Tào Tháo phong cho Trương Liêu làm Trung Lang tướng, ban tước Quan Nội Hầu, rồi sai chiêu an Tang Bá.
Bấy giờ, Tang Bá nghe Lữ Bố đã chết, Trương Liêu đã hàng nên dẫn quân bản bộ đến quy hàng.
Tháo thưởng cho rất hậu.
Tang Bá lại dụ được Tôn Quan, Ngô Ðôn, Doãn Lễ tới hàng.
Chỉ còn Xương Hy chưa quy thuận.
Tào Tháo phong Tang Bá làm Lang gia tướng, bọn Tôn Quan cũng đều được quan chức và được lệnh đóng giữ vùng duyên hải các châu Thanh, Từ.
Tào Tháo truyền đem gia quyến Lữ Bố về Hứa đô, phong tước cho các tướng sĩ mới quy hàng, mở tiệc khao thưởng ba quân.
Kế đó truyền lệnh nhổ trại ban sư.
Khi đi qua đất Từ châu, bá tánh đều thắp hương quỳ thưa:
- Xin để Lưu Sứ quân ở lại trấn nhậm đất Từ châu.
Tào Tháo nói:
- Huyền Ðức có công rất lớn, vậy để về triều lãnh tước rồi sẽ trở ra cũng chẳng muộn.
Trăm họ bái tạ, Tháo liền gọi Xa Kỵ tướng quân là Xa Trụ mà giao cho quyền lãnh Từ Châu.
Quân về đến Hứa Xương, Tháo phong thưởng cho các tướng sĩ xuất chinh, lưu Huyền Ðức ở trong tướng phủ, nghỉ ngơi trong một cái nhà ở sát bên trái.
Hôm sau, Hiến Ðế thiết triều. Tháo tâu rõ quân công của Huyền Ðức, Huyền Ðức chỉnh tề triều phục lạy trước đan trì. Vua tuyên triệu lên điện hỏi:
- Tổ tiên của khanh là ai?
Huyền Ðức tâu:
- Thần là hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh Vương, huyền tôn của Hiếu Cảnh Hoàng Ðế, cháu Lưu Hùng, con Lưu Hoằng.
Vua liền truyền nội giám đem quyển "Tôn tộc thế phổ" ra xem, rồi sai quan Tông Chánh Khanh tuyên đọc lên như sau:
Hiếu Cảnh Hoàng Ðế sinh mười bốn người con trai. Người con thứ bảy là Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu Thắng; Lưu Thắng sinh ra Lục Thành Ðình Hầu Lưu Trinh; Trinh sinh Bái Hầu Lưu Ngang; ngang sinh Chương Hầu Lưu Lộc; Lộc sinh Nghi Thủy Hầu Lưu Luyến; Luyến sinh Khâm Dương Hầu Lưu Anh; Anh sinh An Quốc Hầu Lưu Kiến; Kiến sinh Quảng Lăng Hầu Lưu Ai; Ai sinh Giao Thủy Hầu Lưu Hiến; Hiến sinh Tổ Ỵp Hầu Lưu Thư; Thư sinh Kỳ Dương Hầu Lưu Nghị; Nghị sinh Lưu Trạch Hầu Lưu Tất; Tất sinh Dĩnh Xuyên Hầu Lưu Ðạt; Ðạt sinh Phong Linh Hầu Lưu Bất Nghi; Bất Nghi sinh Tế Xuyên Hầu Lưu Huệ; Huệ sinh Ðông quận Phạm lệnh Lưu Hùng; Hùng sinh Lưu Hoằng; Hoằng sinh Lưu Bị.
Vua so trong thế phổ thì Huyền Ðức thuộc vai chú của vua, mặt rồng hớn hở, bèn mời vào trong Thiên điện lấy lễ chú cháu mà đãi Huyền Ðức.
Hiến Ðế nghĩ thầm trong lòng rằng:
- Tào Tháo lộng quyền không kể Trẫm ra gì. Nay Trẫm có được người chú anh hùng là Trẫm có kẻ giúp rồi!
Bèn phong cho Huyền Ðức làm Tả tướng quân, tước Nghi Thành Ðình Hầu, và bày yến tiệc khoản đãi.
Yến ẩm xong, Huyền Ðức tạ ơn lui ra.
Từ đó mọi người đều gọi Huyền Ðức là Lưu Hoàng thúc.
Tào Tháo về đến phủ, bọn Tuân Húc cùng mưu sĩ đến ra mắt và nói:
- Thiên tử nhìn Lưu Bị là chú, e không lợi cho Minh công.
Tào Tháo lại nói:
- Tuy Thiên tử đã nhìn hắn là Hoàng thúc, song ta lại dùng chiếu vua sai khiến hắn, hắn càng phải tỏ ra hết lòng phục tùng. Huống chi nay ta để hắn ở tại Hứa Ðô, tiếng tuy gần vua, kỳ thật là nằm trong tay ta, ta còn sợ gì?
Tào Tháo lại nói:
- Hiện nay ta chỉ sợ có Dương Bưu là chỗ thân thích với Viên Thuật. Nếu hắn làm nội ứng cho hai anh em họ Viên thì hại này chẳng phải nhỏ. Ta phải nên trừ gấp đi mới được.
Liền ngầm sai người vu cáo cho Dương Bưu là tư thông với Viên Thuật rồi bắt Dương Bưu và giao cho Mãn Sủng xử trị.
Lúc ấy có Thái Thú quận Bắc hải là Khổng Dung còn ở lại Hứa Đô mới khuyên can Tháo:
- Nhà Dương công đã bốn đời có thanh đức, nay há vì chuyện họ Viên mà bắt tội cho đành. Huống chi Dương công ngày trước bảo tấu mà rước Thừa Tướng về kinh, nay sao lại làm điều bất nghĩa như vậy, chẳng sợ triều thần chê cười Thừa Tướng hay sao?
Tháo nói:
- Ấy là lệnh của triều đình, chớ ta có can chi
Dung nói:
- Thế thì giả sử xưa kia Văn Thành Vương giết Thiệu Công, phỏng Châu Công cũng nói mình không biết được chăng?
Tào Tháo bất đắc dĩ phải tha chết cho Dương Bưu, nhưng cách quan chức đuổi về quê quán.
Quan Nghị Lang là Triệu Ngạn giận Tào Tháo chuyên quyền, liền làm sớ tâu với vua hạch tội rằng:
- Tào Tháo không có mệnh vua mà dám tự tiện bắt quan đại thần.
Tào Tháo căm tức, liền bắt Triệu Ngạn giết đi.
Từ đó, bá quan đều sợ hãi, im hơi lặng tiếng.
Một hôm mưu sĩ Trình Dục nói với Tào Tháo:
- Thanh thế của Minh công ngày càng mạnh. Sao không nhân lúc này mà mưu việc vương bá đi?
Tào Tháo có vẻ suy nghĩ, nói:
- Ta xem vây cánh của triều đình còn mạnh lắm, để ta mời Thiên tử đi săn để dò thêm động tịnh thế nào.
Bèn lựa chọn ngựa hay, chó săn tốt, dự bị đủ cung tên.
Tập hợp quân lính ở ngoài thành xong rồi, Tháo vào rước Thiên tử đi săn.
Hiến Ðế phán:
- Việc săn bắn Trẫm e không phải là chánh đạo?
Tháo tâu:
- Những Ðế vương ngày xưa vẫn thường săn bắn bốn mùa: Xuân là sưu, Hạ là miêu, Thu là tiễn, Ðông là thú, ra chỗ giao ngoại để biểu dương uy vũ với thiên hạ. Nay đang lúc bốn bể nhiễu nhương, chính nên mượn việc săn bắn để giảng võ.
Hiến Ðế không dám không nghe, bèn lên ngựa Tiêu dao, đeo Bửu điểu cung, mang Kim phê tiễn ngự giá xuất hành. Huyền Ðức cùng Quan, Trương cũng mang cung dắt tên, trong mình lồng yểm tâm kính, tay cầm binh khí, dẫn vài chục quân kỵ theo vua ra Hứa Điền.
Tào Tháo thì cưỡi ngựa Phi Điện, kéo mười vạn tinh binh, đưa Thiên tử đi săn.
Hôm ấy, quân sĩ bao vây một vòng săn chu vi dài hơn hai trăm dặm.
Tháo cưỡi ngựa đi sát cạnh vua, sụt lại có một đầu ngựa, đằng sau là các tùy tướng tâm phúc của Tháo, còn bá quan văn võ đi xa xa ở phía sau, không dám tiến gần.
Khi vua rong ngựa tới Hứa Điền, vua thấy Huyền Ðức dắt ngựa đứng đón bên đường, liền phán:
- Hôm nay Trẫm muốn xem tài bắn Hoàng thúc đây.
Huyền Ðức lãnh mạng, lên ngựa đi theo.
Khi đến gần một bụi rậm, bỗng có một con thỏ chạy vụt ra.
Huyền Ðức liền bắn một mũi tên, tức thì trúng ngay con thỏ ấy.
Vua hết sức khen ngợi.
Rồi tới cái gò đất, lại thấy một con hươu lớn từ đám cây gai rậm rạp nhảy ra.
Vua giương cung bắn luôn ba mũi tên mà không trúng, bèn ngoảnh lại bảo Tháo:
- Khanh hãy bắn đi!
Tào Tháo xin vua ượn cung ngọc với tên vàng, rồi bắn một phát trúng ngay mình hươu.
Hươu ngã lăn xuống đám cỏ.
Các quan, các tướng vội chạy đến xem thấy kim phê tiễn, ngỡ là của vua bắn, đều nhảy nhót reo mừng, hướng về phía vua mà tung hô vạn tuế.
Bỗng Tháo thúc ngựa sấn lên, đứng chắn trước mặt vua để đón lấy những lời chúc tụng ấy.
Hết thảy bá quan, chư tướng, ai nấy đều thất sắc...
Nhưng một tiếng giật mạnh giây cương vẳng lên đâu đó, và một ánh đao lóe lên!
Thì ra Vân Trường ở sau lưng Huyền Ðức đã tức giận xung thiên, mắt phượng quắt lên, cặp mày tằm dựng ngược, lăm lăm cây đại đao, giục ngựa sấn ra để chém Tháo!
Huyền Ðức thấy thế, hốt hoảng xua tay đảo mắt ra hiệu ngăn lại.
Vân Trường thấy anh như thế, nên không dám ra tay.
Huyền Ðức bèn đến trước mặt Tháo, nghiêng mình mừng rằng:
- Xạ thuật của Thừa tướng thần diệu vô cùng, ít ai sánh kịp.
Tào Tháo cười lớn, nói:
- Ấy là nhờ hồng phúc của của Thiên tử đó.
Rồi quay ngựa lại vái mừng vua, nhưng vẫn lờ đi không dâng trả cây cung khảm ngọc, mà đeo luôn bên mình.
Vòng săn đã dẹp, tiệc yến được mở ra giữa rừng.
Yến ẩm xong, vua trở về Hứa Đô.
Mọi người đều về nhà.
Vân Trường liền hỏi Huyền Ðức:
- Tào tặc khi quân phạm thượng như vậy, em muốn giết đi để trừ hại cho nước, sao anh lại cản em?
Huyền Ðức giảng giải rằng:
- Ném chuột sợ bể đồ quý. Tháo nó ở sát bên vua, chỉ chênh lệch một đầu ngựa. Vả lại, bộ hạ của nó hộ vệ khắp chung quanh. Em vì cơn giận nhất thời mà khi xuất bạo động, nếu việc không thành, lại tổn thương đến Thiên tử, có phải tội lớn đổ về đầu chúng ta không?
Vân Trường băn khoăn nói:
- Nếu chẳng giết đứa phản nghịch ấy, ắt để tai họa về sau.
Huyền Ðức khuyên giải:
- Việc đó phải đợi tùy thời. Hãy nên giữ kín điều đó, chớ có hở ra.
Nói về Hiến Ðế khi về cung trong lòng buồn bực, khóc với Phục Hoàng hậu rằng:
- Trẫm từ ngày lên ngôi đã gặp nhiều bọn gian hùng áp chế đủ điều. Trước hết là cái vạ Ðổng Trác, sau đến cái loạn Lý Thôi, Quách Dĩ, những nỗi khổ mà kẻ thường nhân chưa phải chịu, Trẫm với ái khanh đã phải trải rồi. Sau này được Tào Tháo, những tưởng là bầy tôi rường cột, không ngờ nó chuyên lộng quốc quyền, tự tiện tác oai tác phúc. Mỗi khi Trẫm thấy mặt nó, không khác gì bị chông gai đâm sau lưng! Cho tới hôm nay, giữ chỗ vi trường mà nó dám đứng chắn trước mặt Trẫm để đón lấy lời chúc tụng. Thật là khi quân phạm thượng hết chỗ nói. Sớm tối ắt nó có âm mưu soán nghịch. Vợ chồng ta chưa biết sống chết lúc nào?
Phục hậu buồn bã tâu:
- Cả triều công khanh hưởng lộc nhà Hán mà không lấy có một người cứu được quốc nạn hay sao?
Phục hậu nói chưa dứt lời, bỗng có người ở ngoài cửa bước vào tâu:
- Bệ hạ và Hoàng hậu chớ lo. Thần xin cử một người có thể trừ được họa lớn đó.
Vua xem lại thì người ấy chính là cha của Phục Hoàng hậu, tên là Phục Hoàn.
Vua gạt lệ, hỏi:
- Quốc trượng cũng biết rõ Tào tặc lộng quyền ư?
Phục Hoàn tâu:
- Việc bắn hươu ở Hứa Ðiền, ai mà không biết. Ngặt vì trong triều đầy dẫy những họ hàng và bộ hạ của Tào tặc cả. Nếu không tìm được người quốc thích thì khó trừ giặc giúp Bệ hạ nữa? Lão thần không có binh quyền, khó mà làm được việc này.
Vua hỏi:
- Thế việc ấy thì Quốc trượng dạy nên phó thác cho ai?
Phục Hoàn tâu:
- Có quan Xa Kỵ tướng quân là Quốc cựu Ðổng Thừa. Bệ hạ có thể phó thác được đấy.
Hiến Ðế nói:
- Ðổng Quốc cựu đã từng cứu nạn nước. Trẫm biết rõ lắm. Nên tìm vào đây mà cùng bàn việc lớn.
Phục Hoàn liếc mắt nhìn bốn phía rồi lại nói:
- Những người tả hữu của Bệ hạ đều là tâm phúc của Tào tặc. Nếu sự việc tiết lộ thì tai vạ không nhỏ.
Vua hỏi:
- Vậy thì biết làm sao cho được?
Hoàn tâu rằng:
- Thần có một kế này: Bệ hạ hãy sai may một cái áo bào và một đai ngọc đái, mật ban cho Ðổng Thừa. Trước khi ban, hãy lồng một tờ mật chiếu vào bên trong đai áo. Về đến nhà, thấy chiếu chỉ, ắt Quốc cựu ngày đêm lo liệu kế sách. Như thế thì quỷ thần cũng không biết được.
Vua khen phải. Phục Hoàn liền từ tại lui ra. Vua bèn tự cắn đầu ngón tay út, lấy máu mà viết một tờ mật chiếu, lại sai Phục Hoàng hậu khâu đính tờ chiếu vào bên trong lạp gấm tía, rồi gấp lại, tự tay lồng vào đai áo ấy. Xong đâu đó, sai nội sứ đi triệu Ðổng Thừa.
Ðổng Thừa vào cung bái kiến xong, vua phán:
- Ðêm qua, Trẫm và Hoàng hậu cùng nhau nhắc lại những ngày khổ cực ở Bá lăng, Hoàng hà, nhạ tới công lớn của Quốc cựu, nên nay tìm vào ủy lạo vậy.
Ðổng Thừa liền cúi lạy tạ ơn.
Hiến Ðế dẫn Ðổng Thừa ra khỏi điện, qua nhà Thái miếu, rồi trèo lên gác Công thần.
Vào trong gác, vua thân đốt hương làm lễ.
Lễ xong, dắt Ðổng Thừa lại xem ngắm nghía các bức chân dung.
Trước hết, nhìn vào bức tượng Hán Cao Tổ ở chính giữa, vua hỏi Ðổng Thừa:
- Cao Tổ Hoàng Ðế nhà ta khởi thân từ đất nào? Mở nghiệp ra sao nhỉ?
Ðổng Thừa kinh lạ, tâu:
- Muôn tâu, Bệ hạ phán hỏi thử thần đấy chứ? Việc đức Cao Tổ sao Bệ hạ lại không biết? Cao Hoàng xuất thân từ một vị Ðình trưởng trên sông Tứ, cầm ba thước gươm, chém rắn khởi nghĩa, tung hoành bốn bể, ba năm diệt Tần, năm năm phá Sở mà được thiên hạ, lập nên cơ nghiệp muôn đời.
Hiến Ðế thở dài than:
- Tổ tiên ta anh hùng như thế mà con cháu hèn yếu thế này. Thật đáng buồn thay!
Rồi vua chỉ hai bức tượng hai bên hỏi:
- Ðây có phải là Lưu Hầu Trương Lương và Tạn Hầu Tiêu Hà không?
Ðổng Thừa tâu:
- Chính phải. Ðức Cao Tổ khi khai cơ sáng nghiệp được là nhờ công đức hai vị này.
Vua quay lại thấy tả hữu đứng cách khá xa, liền hạ giọng bảo nhỏ Ðổng Thừa:
- Khanh cũng nên cố gắng như hai vị này mà đứng bên mình Trẫm nhé!
Ðổng Thừa nghe phán, áy náy tâu:
- Hạ thần không chút công lao, đâu dám sánh như thế.
Vua an ủi:
- Trẫm nhớ cái công khanh cứu giá ở Tây Ðô, chưa phút nào quên mà chẳng có chút gì để ban cho.
Rồi trỏ vào chiếc đai ngọc ở áo bào đang mặc:
- Vậy khanh hãy mặc lấy chiếc áo của Trẫm đây, thắt lấy chiếc đai này, thì lúc nào cũng thấy như ở bên mình của Trẫm vậy.
Thừa cúi đầu lạy tạ.
Vua bèn cởi áo bào, đai ngọc trao cho Thừa mà ân cần dặn dò:
- Khanh về nhà, hãy xem xét lại cho cẩn thận. Chớ phụ lòng Trẫm nhé!
Thừa hiểu ý, bèn mặc áo, thắt đai cẩn thận, rồi bái từ xuống gác.
Nhưng sớm đã có kẻ đi báo Tháo rằng:
- Vua cùng Ðổng Thừa lên Công Thần Các nói chuyện gì ấy...
Tháo vội vào triều xem.
Bấy giờ Thừa xuống khỏi gác, vừa ra tới cửa hoàng cung thì gặp Tháo đi tới.
Thừa vội tìm lối tránh mặt, nhưng đã muộn và cũng chẳng có lối nào, đành đứng dẹp ra bên đường, chắp tay thi lễ.
Tháo hỏi:
- Quốc cựu đi đâu đó vậy?
Thừa nói:
- Bẩm, tôi vừa được Thiên tử tuyên triệu vào, ban cho áo gấm, đai ngọc đây ạ.
Tháo hỏi:
- Vì sao mà được ban?
Thừa nói:
- Thiên tử nhớ đến công tôi cứu giá nơi Tây Ðô ngày trước nên ban cho thế này.
Tháo nói:
- Mở ngọc đái cho ta coi.
Thừa biết trong cẩm bào và ngọc đái ắt có mật chiếu, sợ Tháo biết được nên cứ dè dặt không muốn mở.
Tào Tháo liền nạt kẻ tả hữu lột hết ra.
Tháo cầm xem kỹ đến nữa canh giờ, rồi nói:
- Quả cái đai ngọc rất quí!
Rồi lại truyền:
- Cởi luôn áo bào ra ta xem.
Ðổng Thừa trong lòng sợ hãi chẳng dám trái lời, phải cởi áo dâng lên.
Tào Tháo cầm lấy giơ lên soi qua ánh nắng, xem kỹ từng ly từng tí.
Xem xong xỏ tay mặc luôn vào mình, thắt lưng đai ngọc rồi quay lại hỏi tả hữu:
- Dài ngắn ra sao?
Tả hữu thưa:
- Bẩm, vừa vặn lắm ạ.
Tào Tháo quay lại nói với Ðổng Thừa:
- Quốc cựu hãy cho lại ta cẩm bào và ngọc đái này được không?
Ðổng Thừa thất kinh liền nói:
- Ơn Thánh thượng đã ban cho tôi, lẽ nào tôi lại dám cho người khác.
Tào Tháo lại hỏi:
- Quốc cựu mà lãnh cẩm bào và ngọc đái này chẳng biết có mưu kế chi không?
Ðổng Thừa thở ra, mặt mày biến sắc, liền nói gượng:
- Tôi đâu dám nghĩ việc ấy, nếu Thừa tướng có muốn thì tôi xin nhượng lại cho.
Tào Tháo nói:
- Ông chịu ơn vua, tôi đâu dám có tham vọng như vậy, ấy là tôi muốn nói thử ông chơi đó thôi.
Nói rồi liền cởi áo đưa trả cho Ðổng Thừa.
Ðổng Thừa hú vía vội vã cúi đầu ra về.
Ðêm ấy, Ðổng Thừa về đến dinh, ngồi một mình trong thư phòng, đem áo bào ra xem xét kỹ càng.
Nhưng lật đi, lật trở lại mãi, dò tìm rất tỉ mỉ mà tịnh không thấy gì cả.
Thừa trong lòng buồn bã, nghĩ bụng:
- Thiên tử cho ta cẩm bào, ngọc đái lại khiến ta về coi cho kỹ lưỡng, chẳng phải không có việc gì, sao nay ta tìm chẳng thấy dấu tích gì, là nghĩa làm sao?
Nghĩ rồi liền để ngọc đái nơi ghế lật qua lật lại tìm kiếm, nhưng cũng chỉ thấy màu ngọc lung linh óng ánh, có chạm hình con rồng nhỏ bò trong đám hoa, bên trong may gấm tía làm lót, đường kim mối chỉ vuông vắn, thẳng ngay. Và cũng chẳng có dấu vết gì khác lạ.
Thừa nghi hoặc trong lòng, lại đặt lên án thư dán mắt vào mà tìm đi, xét lại. Tìm tòi giờ lâu, mỏi mệt quá, vừa nằm xuống ghế nghỉ, thì bỗng cây đèn trên án chập chờn, ngọc bốc cháy thành hoa, rồi hoa đèn nổ cái "tách", bắn rớt xuống đai áo lửa bén vào lần lót.
Thừa vội vàng lấy tay phủi đi, thì đã cháy thủng một đám nhỏ, lộ ra một tấm lụa trắng, bên trong thấp thoáng có vết máu.
Thừa vội vã lấy dao cắt ra xem, thấy một tờ mật chiếu do chính Thiên tử viết bằng máu.
Chiếu rằng:
Trẫm nghe, trong đạo lạn nhân luân thì cha con làm trọng, trong phận tôn ti thì vua tôi làm trọng. Gần đây giặc Tháo lộng quyền, dối hiếp Quân phụ, kéo bè kết đảng, làm bại hoại Triều cương, mọi việc sắc phong, thưởng phạt đều không do Trẫm làm chủ. Trẫm ngày đêm lo lắng, sợ thiên hạ nguy đến nơi mất. Khanh là đại thần của nước, là người chí thân với Trẫm, nên ghi nhớ công ơn đức Cao Hoàng xưa kia sáng nghiệp gian nan. Hãy cử hợp những liệt sĩ trung nghĩa lưỡng toàn, giết hết gian đảng, phục an xã tắc, thì tông miếu nhà Hán may lắm. Cắn ngón tay lấy máu, Trẫm viết chiếu này trao cho khanh. Khanh phải thận trọng, lo tính cho kỹ, chớ phụ ý Trẫm.
Năm Kiến An thứ tư, mùa xuân, tháng ba. Nay chiếu.
Ðổng Thừa đọc xong thì nước mắt trào tuôn lai láng. Lòng sầu đau, suốt đêm chợp mắt không yên.
Rạng ngày ngồi dậy, lại đến thư phòng, đem tờ chiếu ra đọc đi, đọc lại đôi ba lần, tìm mãi không có mưu chi để trừ Tào Tháo liền để tờ chiếu lên án.
Nghĩ mãi mệt óc, bất giác gục xuống ghế ngủ thiếp lúc nào không hay.
Bấy giờ có quan Thị lang Vương Tử Phục đến chơi.
Người canh cửa biết rõ là bạn thiết của Ðổng Thừa, không dám ngăn trở.
Tử Phục đi thẳng vào thư viện, thấy Ðổng Thừa nằm phục trên ghế mê mệt, tay áo đè lên một tấm lụa trắng để lộ ra một chữ "Trẫm".
Tử Phục nghi ngờ liền rút trộm xem.
Xem xong giấu vào tay áo mình, rồi đánh thức Ðổng Thừa dậy:
- Quốc cựu! Quốc cựu! Sao yên tâm ngủ kỹ thế!
Ðổng Thừa dậy không thấy tờ chiếu đâu thì hồn bay vía lạc, tay chân run lập cập.
Tử Phục nói:
- A, ông muốn giết Tào Công hả? Tôi phải đi xuất thú mới xong!
Ðổng Thừa vừa khóc vừa nói:
- Tử Phục ơi! Nếu ông làm thế thì nhà Hán hỏng mất!
Nhưng Tử Phục nói:
- Ấy là tôi nói chơi đó, cha con tôi đều ăn lộc nhà Hán lẽ nào tôi lại không có lòng ngay. Tôi nguyện giúp sức với ông, cùng diệt trừ đứa quốc tặc.
Thừa lau nước mắt, nói:
- Ông có lòng như thế, thật là đại hạnh cho nước.
Tử Phục nắm tay Ðổng Thừa nói:
- Thôi, bây giờ chúng ta hãy cùng vào nhà kín lập tờ "nghĩa trạng" liều lấy ba họ mà báo ơn vua.
Thừa cả mừng, lấy ra một bức lụa trắng, viết mấy lời nghĩa trạng cam kết, rồi ký tên, ghi tự của mình vào trước tiên.
Tử Phục cũng cầm bút ký tên, ghi tự vào theo.
Ký xong, Tử Phục nói:
- Tướng quân Ngô Tử Lan là chỗ chí thân với tôi. Có thể mời cùng mưu việc được.
Ðổng Thừa nói:
- Ðại thần đầy triều, chỉ có Trường Thủy Hiệu Úy Sùng Tập với Nghị Lang Ngô Thạc là chỗ gan ruột với tôi, ắt có thể cùng chúng ta lo việc này.
Ðang bàn bạc, tên gia đồng vào báo:
- Bẩm, có Sùng Hiệu Úy và Ngô Nghị Lang tới thăm.
Thừa nghe tin mừng rỡ nói:
- Ðây là trời giúp ta!
Nhưng Ðổng Thừa khuyên Tử Phục hãy tạm tránh vào sau bình phong, Thừa ra đón tiếp hai người vào thư viện.
Trà nước xong, Sùng Tập nói:
- Cái việc đi săn ở Hứa Ðiền vừa qua, ông có tức giận không?
Ðổng Thừa giả vờ nói:
- Giận tuy có giận, nhưng làm gì được?
Ngô Thạc giận dữ nói:
- Ta thề giết thằng giặc ấy. Tiếc rằng không có ai giúp ta một tay!
Sùng Tập hăng hái:
- Vì nước trừ hại, dẫu chết tiếc gì thân!
Bỗng Vương Tử Phục từ sau bình phong bước ra dọa:
- Rõ ràng nhé! Hai người đã manh tâm mưu sát Tào Thừa tướng, ta phải đi xuất thú kẻo vạ lớn! Có Ðổng Quốc cựu làm chứng cho ta đây rồi.
Sùng Tập càng giận dữ, mắng:
- Trung thần không sợ chết! Chúng ta chết đi làm ma nhà Hán chớ sống để a tòng dua nịnh thằng quốc tặc như mày sao?
Ðổng Thừa bật cười, liền lên tiếng:
- Thôi đi. Chính hai chúng tôi cũng lo làm việc ấy, đang muốn gặp hai ông đây. Vương Thị lang nói đùa đấy!
Nói rồi, Thừa rút một tờ mật chiếu trong tay áo đưa ra cho hai người xem.
Hai người đọc tờ huyết chiếu mà tuôn tràn suối lệ.
Ðổng Thừa lại đem tờ nghĩa trạng ra mời ký tên vào.
Tử Phục nói:
- Hai ông hãy ngồi đây lát nữa nhé. Ðể tôi đi mời Ngô Tử Lan đến luôn.
Nói rồi Tử Phục ra đi.
Ði chưa bao lâu đã mời được Ngô Tử Lan đến ra mắt mọi người.
Rồi cũng đọc chiếu và ký tên vào nghĩa trạng.
Ký xong Ðổng Thừa mời tất cả vào hậu đường uống rượu.
Ðang đàm đạo, bỗng lại có tin báo:
- Thái Thú Tây Lương Mã Ðằng đến thăm.
Ðổng Thừa truyền cho Môn lại:
- Bây ra xin lỗi rằng ta đang bịnh không thể tiếp kiến được.
Môn lại vâng lời ra báo như thế. Mã Ðằng nổi giận nói:
- Thế là làm sao? Mới hôm qua ta đứng ngoài cửa Ðông Hoa, chính mắt ta thấy rõ ràng hắn mặc áo gấm thắt đai ngọc đi ra, bây giờ kêu đau nặng? Ta không phải vô sự mà tới đây. Sao lại cự tuyệt không tiếp?
Người canh cửa lại chạy vào kể rõ lời lẽ và sự giận dữ của Mã Ðằng.
Ðổng Thừa liền đứng dậy nói:
- Các ông đợi chốc lát để tôi ra xem.
Ðổng Thừa đón mời Mã Ðằng vào sảnh đường. Chào hỏi an tọa xong.
Ðằng trách:
- Tôi mới vào chầu nhận mệnh, sắp phải đi xa, nên tới đây từ giã nhau, sao Quốc cựu lại muốn lánh mặt?
Ðổng Thừa nói:
- Thân hèn đau bịnh bất ngờ, không ra đón tiếp được. Thật có tội với Sứ quân.
Mã Ðằng nhìn thẳng vào mặt Ðổng Thừa nói:
- Vẻ mặt tươi tỉnh hớn hở thế kia, sao gọi là đau?
Ðổng Thừa chẳng biết trả lời sao nữa. Ðằng rũ áo đứng phắt dậy thở dài một cái, rồi vừa bước xuống thềm vừa nói:
- Những hạng này không phải mặt cứu nước!
Ðổng Thừa nghe nói xúc động, níu tay giữ lại hỏi:
- Ông bảo ai là người không đáng mặt cứu nước?
Mã Ðằng nghiến răng nói:
- Cái việc bắn hươu ở Hứa Ðiền, tôi còn tức uất gan, đầy phổi đây! Ông là người thân thích của nhà vua mà cũng đắm chìm trong tửu sắc, không nghĩ kế đánh giặc. Như thế đâu phải người phò nạn cứu nguy cho nhà Hán?
Vẫn còn sợ Mã Ðằng lừa dối mình, Thừa giả bộ kinh hãi nói:
- Tào Thừa tướng là đại thần rường cột của nước, cả triều đình trông cậy vào, sao ông ăn nói như thế?
Ðằng đùng đùng nổi giận mắng:
- Ðến ngươi cũng cho thằng giặc Tào là người tốt nữa à?
Thừa nói:
- Ỷ đây tai vách mạch rừng, xin ông nói nho nhỏ chứ...
Ðằng càng giận, mắng lớn hơn nữa:
- Thôi, đồ tham sống sợ chết! Không đáng cùng luận bàn việc lớn!
Mắng rồi, lại toan đứng dậy. Thừa biết Ðằng là người trung nghĩa, liền bảo:
- Ông hãy nguôi giận. Tôi mời ông vào đây xem cái này...
Ðổng Thừa dẫn Ðằng vào thư phòng, đem tờ chiếu ra xem.
Mã Ðằng đọc xong nộ khí xung thiên, tóc râu dựng ngược, trợn mắt nhíu mày, răng cắn chặt môi, máu chảy đầy miệng! Ðoạn bảo Ðổng Thừa:
- Khi nào ông ra tay, tôi sẽ đem hết binh mã Tây Lương về tiếp ứng ngay!
Ðổng Thừa mời Mã Ðằng vào hội kiến với bốn người kia, rồi lấy tờ nghĩa trạng bảo Ðằng ký vào.
Ðằng tức thì chích máu hòa rượu cùng mọi người uống mà thề:
- Chúng ta thề cùng chết, quyết không phụ lời ước!
Thề xong, Mã Ðằng trỏ vào năm người kia nói:
- Nếu được đủ mười người như thế này làm "thập nghĩa" ắt đại sự phải thành.
Ðổng Thừa nói:
- Kẻ sĩ trung nghĩa lúc này khó mà được nhiều. Nếu mưu việc với kẻ không ra gì e mang hại.
Bấy giờ Ðằng nghĩ cách tìm thêm người, liền bảo Thừa lấy cuốn sổ "Uyên hàng lộ tự" (ghi tên các triều thần) ra xem xét. Khi xem tới tên những người tôn thất họ Lưu.
Ðằng bỗng đập tay xuống bàn nói:
- Ðây rồi! Sao ta không bàn việc với người này?
Mọi người cũng vội hỏi:
- Ai? Người nào thế?
Mã Ðằng không ngần ngại, trỏ tay vào sổ, đọc tên người ấy lên...
Ðó chính là:
Ðã hay Quốc thích vâng minh chiếu,
Lại có Hoàng thân giúp Hán triều.
Tổng Số: 25
<< 1 2 3 >>
Chia Sẻ Bài Viết
Chia sẻ tới: Zalo Facebook Google Plus Twitter 

BBCode:

Link:

Tiêu đề:
Bình Luận
Bài Viết Ngẫu Nhiên
Tuyển Tập 234 Câu Hỏi Xoáy Đáp Xoay Đau Đầu
Cách Đưa Wap Lên Google Nhanh Và Hiệu Quả
Xem bói bàn tay để biết vợ chồng chung thủy không?
Xem bói tay ngón áp út biết vận mệnh tương lai
Đoán Tuổi
Hướng dẫn làm món thịt kho tàu thơm ngon nhất
Làm cá mè kho dưa chua cực ngon
Nhìn các ngon tay để biết vận mệnh và sức khỏe của bạn
Gấp Con Nhện
Phần 2: Hướng Dẫn Sử Dụng Openshift Cloudhosting Trên Điện Thoại Android
Từ khóa: Diễn , Nghĩa , Quốc , Tam , Nghĩa
Trang Chủ
Cùng hòa mình vào những cung bậc cảm xúc với những mẩu truyện hay nhất
Click Lên Đầu Trang
Textlink: Wap Tải Games + Giải Trí Tổng Hợp: KenhVip.Net
Textlink: Wap Giải Trí Ngắm Ảnh, Xem Video Gái Xinh: TopGai.Hexat.Com
Textlink: Http://KimCuongBlog.XtGem.Com - Blog Chia Sẻ
Textlink: GameOi.Wap.Sh - Wapsite Tải Game Miễn Phí
Thống Kê Wap